Hồi Ký Của Ông Trương Võ

Posted: Sunday, November 14, 2010 by ttnbg in
0

"Từ đó, cứ mỗi ngày bọn lính Pol Pot đều phân công cho nhóm dân tị nạn chúng tôi làm công tác lao động khổ sai như vác củi, đào hầm hố, giao thông hào, hầm chiến lược và đi tải gạo.  "


Ông Trương Võ là cựu đại uý Biên Tập Viên, ngành Cảnh sát của Việt Nam Cộng Hòa. Ông Võ sinh năm 1946, tại Tây Ninh. Sau năm 1975, ông Võ là tù nhân chính trị của chế độ Cộng Sản Việt Nam. Ông đã bị giam cầm tại nhiều trại từ Nam đến Bắc Việt trong suốt năm năm (1975-1980). Vợ và con ông Võ đã vượt biển khoảng năm 1978.

Ông Võ đã ở qua các làng của Pol Pot, trại tị nạn NW 9, trại tị nạn Panatnikhom Holding Center, trại Rangsit Transit Center trước khi đi định cư tại Hoa Kỳ. Hiện nay, ông Võ đang sống tại San Jose, tiểu bang California với gia đình ông.

Sau khi được trả tự do, ông Võ liền trốn thoát bằng đường bộ vào tháng 5, năm 1980. Ông đã lọt vào khu kiểm soát của lực lượng Khmer Đỏ (Pol Pot). Bọn Pol Pot cũng tàn bạo và bất nhân không kém gì bọn Para. Chúng cũng hãm hiếp, cướp của, hành hạ và giết chóc người tị nạn đường bộ một cách tàn nhẫn và vô nhân đạo.

Trong lịch sử cận đại, lực lượng Pol Pot đã từng giết hại trên hai triệu đồng bào của họ sau năm 1975. Họ đã mang tội diệt chủng thì xá gì thân phận nhỏ nhoi của người dân Việt tị nạn, một dân tộc láng giềng vốn không thân thiện gì với họ.

Từ sau năm 1979, có nhiều người tị nạn bị giam giữ và hành hạ trong các làng và trại tù của lực lượng Pol Pot. Có rất nhiều người đã chết không lời trăn trối, không nhắm mắt vì chết oan uổng khi họ đã gần đến bến bờ tự do. Nỗi oan khiên cùng với số phận hẩm hiu của họ đang cần những người có thẩm quyền và lòng thương cứu giúp.


Cuộc Hành Trình Từ Việt Nam Đến Thái Lan.


Khi tôi được Chính quyền Cộng Sản Việt Nam trả tự do được một tháng là tôi liền vội tìm đường dây để đi vượt biên. Lúc ấy, tôi nghe nhiều người đã đi thoát cách trót lọt bằng lối đường bộ.

Trước khi đi, hồi còn ở Sàigòn, tôi thường vặn radio để nghe đài BBC và đài VOA. Tôi được biết là ở trại Non Samet và trại Non Chan, dân tị nạn thường hay bị lực lương Para của người Khmer hà hiếp. Người trưởng trại là giáo sư PNB. Đài BBC hay đài VOA có phỏng vấn ông B. bằng Anh ngữ. Nhờ nghe đài cho nên tôi mới cố gắng tìm cách đi vượt biên bằng đường bộ.

May mắn thay, tôi được biết một tổ chức của người quen đã đưa được nhiều người vượt biên đến nơi an toàn. Những người này đã viết thư về cho thân nhân ở Việt nam biết tin. Tổ chức ấy là do nghiệp đoàn xe vận tải chuyên chở gạo từ Sàigòn lên Nam Vang rồi đến Battambang để tiếp tế cho các lực lượng quân đội của Việt Cộng ở đó. Họ đã tổ chức đưa người đi từ nhiều tháng nay, nhưng chưa hề bị đổ bể và họ chỉ tuyển các người quen biết, chứ không đưa người lạ đi vì sợ lộ. Tôi cũng nhờ có người quen ân cần giới thiệu nên mới được tổ chức ấy chấp nhận.

Tiền lệ phí cho việc vượt biên là bốn lượng vàng cho mỗi đầu người. Tôi bắt đầu ra đi từ Sàigòn vào khoảng cuối tháng 5, 1980. Từ 5:00 giờ sáng, người ta bắt đầu bỏ gạo lên xe. Đến khoảng 7:00 giờ sáng, đoàn xe gồm bảy, tám chiếc bắt đầu chuyển bánh rời Sàigòn. Mỗi xe trong đoàn xe vận tải đều có tài xế chính và một người phụ xế, còn gọi là lơ xe.

Xe nào cũng có giấy tờ chính thức của chính quyền Cộng Sản cấp cho, gồm công vụ lịnh, số lượng hàng hoá để tiếp tế cho các lực lượng quân đội ở vùng biên giới Thái và Cambodia.

Dọc đường từ Sàigòn đi đến Gò Dầu, chúng tôi phải đi khoảng mười mấy trạm kiểm soát quân sự. Các trạm kiểm soát này được đặt ra để kiểm soát hàng lậu thuế, đồng thời cũng để chận bắt những kẻ muốn vượt biên giới.

Khi qua các trạm kiểm soát này, tài xế chủ xe không cho tôi ngồi ở trên xe vì sợ bị lộ. Vì thế, tôi phải đi bộ hoặc đi xe Lam (lXe Lambretta) vào những lúc trước khi đến trạm và sau khi qua khỏi trạm gác độ chừng một cây số.

Khi tới trạm kiểm soát ở Gò Dầu thì đã khoảng 12:00 giờ trưa rồi. Tới trạm Gò Dầu thì tài xế phải trình giấy tờ ở đó. Thường thì mỗi xe được quyền chở hai người: một tài xế và một phụ xế. Nếu xe nào muốn chở thêm người vượt biên thì phải làm một cái hang trong lòng xe để dấu người ta ở dưới hang ấy và bỏ gạo lên chung quanh để ngụy trang.

Từ Gò Dầu đến Soài Riêng, thuộc địa giới của Cambodia thì có một trạm kiểm soát biên phòng rất khó khăn và nguy hiểm. Trạm này nằm ở vùng Sài Phu, thuộc tỉnh Soài Riêng, cách Gò Dầu khoảng hai mươi cây số. Tại đây, rất nhiều người vượt biên bị bắt lại vì bọn lính kiểm soát rất kỹ, hễ thấy nghi ngờ là chúng tóm ngay người vượt biên.

Vì thế tổ chức này đã chuẩn bị chu đáo. Họ mua rất nhiều thùng bia và thuốc lá 555 để hối lộ cho công an biên phòng tại đó.

Trước khi đi, tổ chức này đã cho tôi biết là tôi phải đóng vai phụ xế. Vì thế, họ dạy tôi mọi cách thức để trở thành một phụ xế: xuống trình giấy ở các trạm kiểm soát ra sao, học tiếng Miên về số xe, về các câu hỏi đáp thông thường để trả lời các trạm gác Việt và Miên ở trên đường đi.

Khi đến trạm gác đầu tiên, vì chưa thực hành lần nào nên tôi hơi sợ. Tôi vội vàng nói với ông tài xế:

-Đây là lần đầu tiên, anh làm ơn chỉ tui lè lẹ coi làm cái gì trước.

Anh tài xế bảo tôi:

-Anh cứ việc xuống trình giấy thôi.

Xem chừng tôi lạng quạng trong việc đó nên anh tài xế dành làm luôn công tác trình giấy. Trong lúc ấy, tôi nghĩ nếu mình ngồi trên xe trơ trọi thì kỳ quá nên tôi giả đò chạy xuống gầm xe, chui vào dưới lườn xe để làm bộ sửa máy. Tôi còn quẹt dầu mỡ để họ tin mình là thứ thật.

Còn anh tài xế thì vừa trình giấy, vừa đưa bia hộp, bánh mì và thuốc lá để hối lộ bọn lính công an ở trạm gác đó. Sau khi công an trả lại giấy tờ, chúng tôi vội vàng leo lên xe đi tiếp. Trong xe, ngoài anh tài xế vừa là chủ xe ra, còn có tôi giả làm phụ xế, tôi mang giấy tờ và căn cước không dán hình của người phụ xế thật.

Trong chuyến đi của tôi có một thanh niên cũng đi vượt biên tên là Thuần. Thuần được chủ xe dấu ở dưới một cái hầm kiên cố có lót ván kỹ, chung quanh là các bao gạo loại một tạ (100 trăm ký lo). Thuần luôn phải nằm trong hầm đó vì thế rất lnóng và ngộp thở vì thiếu không khí.

Qua khỏi trạm kiểm soát, tôi vội vọt ra phía sau xe, la thật to để Thuần ở dưới lớp gạo có thể nghe được:

-Ê Thuần! Khỏe không mày?

Thuần đáp:

- Ngộp và nực quá anh ơi!

Tôi bèn chui tới móc các bao gạo che cái hầm, rồi vạch các lớp ván để Thuần có thể chui ra được. Cũng vì đã làm lao động nhiều khi còn ở tù, nên tôi không thấy khó khăn khi móc các bao gạo ấy. Mừng rỡ, Thuần nhảy ra khỏi hầm, mồ hôi hắn chảy ra nhễ nhại.

Rồi đến trạm khác, tôi lại vạch gạo cho Thuần chui vào hầm như cũ. Đến gần trạm độ một trăm thước thì xe ngừng lại, tôi bèn lấy hai tấm giấy có tên tài xế chánh và tài xế phụ cùng công vụ lịnh để trình cho lính Miên kiểm soát.

Tôi cũng nói bập bẹ vài tiếng Miên về số xe và lộ trình từ Sàigòn đi Battambang. Khi bọn lính Miên ra dấu cho phép xe đi, tôi ngoắc cho xe đi tới từ từ, rồi như người phụ xế thứ thật, tôi nhảy vọt lên xe khi xe đang chạy. Cứ thế, đến mỗi trạm thì anh Thuần phải nằm trong hầm, qua khỏi trạm, thì hắn lại được tôi móc lên để ngồi cho thoải mái.

Chúng tôi phải qua mặt đến mấy chục trạm, lần nào, cũng những động tác trình giấy như vậy, cũng móc Thuần lên và dấu hắn xuống hầm. Hễ đến bữa ăn thì chúng tôi được ăn uống đầy đủ. Đến tối hôm ấy thì đoàn xe chúng tôi đến phà bắc Neak Luông. Chúng tôi xuống xe và ghé quán ăn uống.

Lúc ấy, bắc Neak Luông rất kẹt xe. Trời sập tối, thừa lúc đông người lộn xộn, cả chủ xe lẫn dân vượt biên chúng tôi đều nhảy xuống xe để đi tắm mát.

Chuyến xe vận tải đó có bảy, tám chiếc và chở bảy người vượt biên trong đó. Có xe chở hai người vượt biên, như xe đang chở tôi. Nhưng cũng có xe không chở một người nào cả. Chủ xe nào gan mới dám chở người vượt biên. Như ông T., anh của Bảy Bòn. Tuần nào, ông T. cũng chở khách vượt biên. Ông này rất chịu chơi, ông ta tuyên bố là hễ bị ”bể mánh” thì ông ta vượt biên đi luôn.

Những người nào đi vượt biên theo kiểu chui dưới hầm bí mật được bao quanh bằng những bao gạo thì giá rẻ hơn, chỉ có ba cây (lượng) một người. Đi như vậy rất khổ sở vì cả buổi bị nằm chui rúc, quấn tròn, ngộp thở và khó chịu vô cùng. Xe chạy dằn nên nếu ai không khỏe thì chắc bịnh luôn. May là Thuần rất khỏe.

Ở bắc Neak Luong này, khi ăn cơm xong, những người tài xế phải trả tiền ăn bằng vàng. Người dân ở đây chê tiền Việt nam và họ thích lấy vàng hơn.

Sau đó, chúng tôi qua bắc và chạy đến Nam Vang. Lúc ấy, trời đã về khuya, chúng tôi vì có giấy tờ hợp pháp nên đi chơi Nam Vang. Thành phố này thật đẹp nhưng vì giới nghiêm nên chúng tôi không được đi chơi lâu.

Đêm hôm ấy, chúng tôi ngủ tại Nam Vang. Sáng hôm sau, xe bắt đầu hướng về tỉnh Battambang. Suốt cuộc hành trình, chúng tôi vẫn diễn lại các động tác; trình giấy, dấu Thuần dưới hầm khi đến trạm kiểm soát…

Một lần vì gặp xui nên có một đoàn lính Miên độ bốn, năm tên chỉa súng ra dấu xin đi quá giang xe của chúng tôi. Người tài xế bắt buộc phải để cho họ quá giang. Tôi bèn lo quá, vì cho quá giang là điều rất nguy hiểm. Vì thế tôi đành hy sinh, nhường chỗ ngồi ở gần tài xế cho bọn lính ngồi. Một thằng thì leo lên mui xe ngồi vắt vẻo, còn tôi ngồi ở trong xe với Thuần.

Trước đó, tôi có dặn dò Thuần rằng:

-Hễ êm xuôi thì tao móc mày lên cho đỡ ngộp, còn nếu có gì trục trặc là tao không thể móc mày lên được. Mày đừng đòi lên mà lộ đó nghe không!

Tính ra từ Sàigòn đến Battambang, chúng tôi phải đi mất ba ngày, ba đêm ròng rã. Khi đến Battambang, các tài xế cũng thường là chủ xe, đậu xe ở bến xe rồi tổ chức ăn uống. Họ chưa đem gạo đi giao mà lo đi móc nối với các người dẫn đường ở địa phương để bọn này dắt chúng tôi đi.

Nghe hai bên thảo luận giá cả thì hình như một đầu người phải trả là từ tám chỉ vàng đến một lượng để được dắt đến biên giới Thái Lan. Ở đây, tình trạng chúng tôi khá an toàn vì nhờ chủ xe buôn bán đồ lậu nên quen hết giới buôn lậu ở Sisophon. Nếu cần, chúng tôi có thể ở tạm nhà đám buôn lậu này mà không sợ bị bắt. Dân buôn lậu rất có ”máu mặt”. Bọn họ mua luôn cả lính Cộng Sản Việt ở Sisophon. Do đó, chúng tôi không sợ bị xét sổ gia đình. Chúng tôi chờ đợi tại khu chợ trời Sisophon đó suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ để chờ được dắt đi tiếp.

Khu chợ trời này ở gần Battambang. Thành phố Sisophon cũng trực thuộc tỉnh Battambang luôn. Trong khi chờ đợi, tôi đi ra phố chợ chơi vì tôi có đủ giấy tờ, công vụ lịnh và căn cước của phụ xế. Còn giấy tờ quan trọng của chính tôi thì tôi đã dấu kín ở trong xe vận tải.

Chúng tôi dắt nhau đi ăn hủ tiếu và uống Coca Cola. Ăn xong thì đưa vàng trả tiền. Bà chủ quán cắt ngay nửa cái nhẫn vàng một chỉ. Thật là đắt cắt họng. Tuy nhiên, chủ xe bao hết cho chúng tôi về các chi phí ăn uống ấy.

Đến tối, bà Miên dẫn đường tới nói chuyện đi vượt biên với chúng tôi. Bà ta nói tiếng Miên với đám tài xế chủ xe. Trong đám tài xế cũng có người biết tiếng Miên nên họ thảo luận giá cả với nhau.

Trong đám những người đi vượt biên thì có một người chưa chịu đi vì còn muốn chờ bà con từ chuyến khác đến rồi đi chung. Vì thế chỉ còn có sáu người muốn đi. Trong sáu người này thì có một anh nói tiếng Miên rất giỏi. Vì thế, bà dẫn đường đề nghị là anh ta đi đường lộ chính với bà ta, khỏi cần đi lén lút như bọn chúng tôi vì chúng tôi không biết tiếng Miên.

Tổ chức của bà Miên này rất quy mô. Sau này tôi mới biết là bà ta hoạt động kinh tài cho bọn Pol Pot. Cũng vì thế mà chúng tôi sau này đỡ bị Pol Pot hành hạ hơn những người khác. Bà Miên này có ba đệ tử là người Miên lai Tàu. Bọn họ biết tiếng Miên, Tàu và Pháp. Họ đã đưa nhiều người đi thoát rồi.

Họ hẹn đúng sáu giờ chiều hôm sau sẽ dắt chúng tôi đi tiếp. Ở vùng Sisophon và Battambang này, người ta nói chuyện đi vượt biên một cách công khai, không sợ sệt hay e dè gì cả.

Đến đúng sáu giờ chiều hôm sau, một người trong đám tài xế lấy một chiếc xe vận tải chở năm đứa tôi ra vùng ngoại ô của Sisophon. Tới một khu có cây cối rậm rạp và um tùm như rừng thì họ cho xe dừng lại.

Sau khi ngó quanh quất hai bên đường, thấy chắc ăn là không có ai qua lại, người tài xế ra lệnh cho chúng tôi xuống và chạy về phía bên tay trái và tấp ngay lùm cây rậm rạp đó thì sẽ có người đến đón. Lúc đó ở Sisophon có giới nghiêm lúc bảy giờ tối. Còn anh bạn giỏi tiếng Miên thì ở lại, đến ngày hôm sau mới đi cùng bà dẫn đường, họ dùng xe đạp đi ung dung trên đường lộ chính.


Quả thật, khi chúng tôi chạy ùa đến lùm cây thì đã thấy có ba người Miên ngồi chờ sẵn ở đó rồi. Họ thấy chúng tôi thì ôm chận lại và ra dấu cứ bình tĩnh, đừng sợ sệt gì cả. Chúng tôi thấy bọn họ đón mừng thì cũng yên tâm.

Sau đó, chúng tôi gồm tám người ngồi thảo luận dưới lùm cây, gần bờ suối. Ba người này không hề biết tiếng Việt, nhưng có một người biết tiếng Pháp. Còn năm người chúng tôi thì không ai biết tiếng Miên cả. Hồi còn trẻ, tôi có học tiếng Pháp nhưng vì lâu quá nên quên hết. Tuy vậy, khi họ nói thì hiểu chút đỉnh, nhưng lại không nói lại bằng tiếng Pháp được.

May mắn trong đám người tị nạn có anh Minh, thường được gọi là Minh Cận vì anh ta cận thị rất nặng. Anh Minh xuất thân từ trường Pháp nên tiếng Pháp của anh rất khá(Minh hiện nay ở vùng Glendale, California). Vì thế tôi rất vững dạ. Tôi bèn họp bốn người bạn đồng hành và nói:

-Trong nhóm mình, có lẽ tôi có kinh nghiệm quân sự hơn ai hết. Cho nên tôi giải thích cho các bạn lúc gặp địch thì phải đối phó như thế nào.

Sau đó, tôi giảng giải về kinh nghiệm đi xuyên rừng mà tôi đã học được trong thời gian ở quân ngũ. Tôi còn bảo Minh dùng tiếng Pháp để hỏi cặn kẽ về đường đi nước bước để nắm vững tình hình. Bọn dẫn đường nói là phải chờ mặt trời lặn đã mới dám đi. Chúng tôi đành ngồi trong lùm cây đợi khoảng một hai tiếng sau rồi mới được đi.

Trong lúc chờ đợi, tôi xúi Minh vạch kế hoạch hỏi han đủ thứ. Nào là đường đi từ đây tới biên giới Thái còn bao xa nữa. Còn nếu đi thì đến bao lâu nữa mới tới. Bọn dẫn đường trả lời là nếu đi từ tối thì đến buổi sáng mai sẽ qua khỏi tầm hoạt động của lính Cộng Sản.

Bọn họ tổ chức có vẻ đàng hoàng. Một người biết tiếng Pháp thì dẫn chúng tôi đi, còn hai người kia thì đi thám thính ở phiá trước để xem có yên không. Nếu gặp nguy hiểm thì họ sẽ trở lại để báo tin cho chúng tôi. Còn nếu họ không trở lại là vì tình hình tốt. Như vậy thì chúng tôi cứ tiếp tục đi tới. Người dẫn đường đi chung với chúng tôi thì biết đường đi nhưng anh ta phải đi chậm lại để dẫn chúng tôi.

Chúng tôi đi từ tối hôm ấy đến bảy giờ sáng hôm sau. Anh Minh bị cận thị quá nặng nên khi bỏ kiếng cận ra, anh ta không thấy đường đi, nên anh ta đi rất chậm. Các bạn khác cũng đi rất chậm vì đã quá mệt mỏi. Còn tôi cũng nhờ bị ở tù và bị hành hạ suốt 5 năm dài trong tù cải tạo nên tôi đã quen với cảnh này. Vì thế, tôi đi rất mau, vừa đi vừa thúc giục các bạn để họ đi cho kịp.

Chúng tôi không hề biết phương hướng. Chỉ biết là đi băng rừng rồi qua ruộng. Ruộng thì vừa cắt luá nên những cuống rạ đâm sước chân làm bật máu và đau nhói buốt cả tim gan. Khi vô rừng thì cỏ gai đâm nát chân. Nhưng chúng tôi cũng cố mà đi tiếp.

Khi đi vào đêm trăng sáng, mình còn thấy bóng của mình in trên mặt đất. Đến độ khoảng 10:00 giờ khuya, lúc chúng tôi đang đi trên một cánh đồng thì thình lình thấy ánh sáng của một chiếc đèn pin rọi sáng. Tôi liền quơ tay ra hiệu cho mọi người nằm sấp xuống đất. Lập tức, ba người Miên dẫn đường cũng vội vàng nằm xuống theo.

Theo quy ước, khi vô rừng thì hai người Miên đi tiền sát. Nếu đi ở đồng ruộng thì họ vẫn đi ở phía trước, nhưng chúng tôi đều nhìn thấy họ cả. Hai người Miên vội bò ngược về phiá chúng tôi. Tôi sợ quá, không biết ánh đèn đó của ai: Việt Cộng, Pol Pot hay lính Miên?

Tôi khèo Minh và bảo hắn hỏi xem người có đèn pin là ai, và có chuyện gì đáng ngại không. Bọn dẫn đường bình tĩnh trả lời rằng đó là đèn pin của những người buôn lậu. Tuy nhiên, mình cũng không nên để cho bọn người buôn lậu thấy mình. Thôi đành tạm nghỉ lại đây, chờ khuya mới đi tiếp.

Thế là cả bọn tạm kiếm chỗ nghỉ. Các bạn tôi lăn ra ngủ hết nhưng ba người dẫn đường thì chưa ngủ. Còn tôi, tôi sợ hãi nên không ngủ được. Vả lại tôi sợ ngủ quên thì bị bọn dẫn đường bỏ rơi. Tôi đã trù liệu rằng nếu gặp Việt Cộng thì tôi sẽ chạy để họ bắn với theo, còn hơn để bị bắt lại, rồi bị tù lần nữa.

Đêm qua đi chầm chậm mà tôi thì không dám ngủ. Lòng tôi bồn chồn và mất bình tĩnh nên tôi cứ thấp thỏm, nằm ngó tới ngó lui hoài. Khoảng giữa đêm khuya, khi không còn thấy ánh đèn nữa, thì chúng tôi bèn bàn nhau đi tiếp. Cũng may là anh Minh còn giữ được cái đồng hồ để xem giờ giấc.

Khi vào lại trong cánh rừng thì hai người Miên tiền sát đi trước rồi chúng tôi đi sau. Khoảng hai, ba giờ khuya, từ bên này rừng, chúng tôi đi băng qua một con đường lộ xe hơi bằng đất đỏ để qua rừng phía bên kia.

Khi qua đến phía bên kia của con đường lộ thì chúng tôi thấy có rất nhiều con đường mòn khác nhau. Các bạn tôi đi quá chậm. Trong khi ấy, hai người Miên tiền sát đã đi mất hút về trước. Thế là chúng tôi bị lạc mất, không còn thấy hai người dẫn đường ấy đâu nữa.

Đến đó, tôi sợ quá, bèn kêu người Miên dẫn đường còn lại và hỏi hắn trong ngôn ngữ quốc tế:

-Anh có thể dẫn chúng tôi đến trại tị nạn không?

Anh chàng Miên gật đầu và nói là có. Nhưng qua cách dẫn đi của hắn, đi qua lại lòng vòng, tôi đoán chắc là hắn ta không biết đường đi. Hắn lại có vẻ suy nghĩ và lo âu điều gì. Tôi nghĩ bụng:

”Có lẽ thằng qủy này không biết đường đi rồi đây!”

Cuối cùng, tên dẫn đường bèn nói thật là hắn không rành đường đi và hắn cũng đang sợ lạc. Nghe vậy, tôi lại nghĩ khác, tôi nhủ thầm:

”Chắc là bọn tôi bị chúng gạt rồi. Đúng là đem con bỏ chợ rồi. Tổ chức này là tổ chức ma rồi đây!”

Nghĩ thế, tôi bèn quay sang bàn luận với bạn bè:

-Bây giờ mạng mình còn hay mất là do nơi thằng này đây. Nếu nó trốn đi là mình chết hay bị bắt ngay. Mình phải bám sát lấy nó, đừng cho nó chạy đi. Bằng mọi giá phải nắm lấy nó!”

Thế là tôi đi bám sát lấy người Miên dẫn đường. Đến độ bốn giờ sáng, người dẫn đường dừng lại và nói rằng hắn không biết đi đường nào nữa, thôi đành chờ đến sáng thôi! Tôi phản đối ngay:

-Không được, lỡ mình nằm đây mà gặp lính Việt Cộng hành quân qua thì họ bắt tụi tui rồi làm sao?

Lúc ấy, chúng tôi cứ đi, lúc vào rừng, lúc ra ruộng. Tôi cứ dặn dò các bạn đồng hành hãy cố bám sát người dẫn đường kẻo hắn bỏ rơi mình dọc đường, nhưng dường như không ai chịu nghe lời tôi cả. Tên Miên kia đòi đi cầu, tôi lại sợ hắn lấy cớ bỏ đi nên tôi cũng làm bộ đi cầu như hắn. Thực ra, tôi không mắc cầu nhưng vì muốn theo sát hắn để canh chừng.

Trong lúc tôi sợ đến có thể điên được thì các bạn đồng hành cứ ngủ tỉnh bơ. Riêng tôi, tôi nằm mà lấy chân thò ra để đụng cho được người của tên dẫn đường để hễ hắn dang ra là tôi biết ngay.

Mỗi lần dừng chân, tôi đều nhắm hướng tây bắc, tây nam để mà kiếm cách đi qua Thái Lan. Đến khi nằm chờ ở đó thì chúng tôi lại may mắn nằm gần con đường mòn của dân đi buôn bán chợ Trời.

Khoảng sáu giờ sáng thì có tiếng gà rừng gáy, chúng tôi lại tiếp tục đi nữa. Chúng tôi gặp một con kinh đào nhưng cạn khô hết nước. Cả bọn chúng tôi leo lên đập bờ kinh đào để đi thẳng về hướng tây. Đi nửa chừng, chúng tôi gặp ba người có dáng điệu của nông dân, họ quấn xà rông. Tôi lại sợ hết hồn, bèn nghĩ thầm:

”Chết rồi, tụi này có lẽ là bọn nằm vùng, lỡ nó tố cáo mình thì chết!”

Nghĩ vậy nhưng chúng tôi vẫn đi thẳng, rồi muốn tới đâu thì tới. Đi một chập lâu, chúng tôi gặp một đoàn xe đạp đi từ Sisophon đến Thái Lan. Tôi quá mừng vì biết là con đường này đi lên biên giới rồi.

Chúng tôi tiếp tục đi men theo con đường ấy. Đi thêm độ hai ba tiếng nữa, thì người dẫn đường cho biết là đường mòn này thường hay có dân buôn lậu từ biên giới đi và về. Người ta đi lại tấp nập bằng xe đạp, còn chúng tôi thì đi bên cạnh lề đường.

Vùng này hình như thuộc vùng trái độn, là ranh giới giữa lính Việt Cộng và Pol Pot. Chúng tôi cứ cắm đầu đi mãi. Đến một lùm cây nọ, tôi thấy trong bụi cây có một toán lính gồm năm, sáu người trông giống như Việt Cộng. Họ mặc quần xà lỏn, áo đen, choàng khăn cà ma, đi dép râu và đeo súng AK.

Ngay lập tức, họ ùa ra đứng đón chận chúng tôi. Hồn vía lên mây, tôi cùng một người bạn, cũng ở trong quân đội ngày xưa bèn quay chạy ngược về phía cũ để trốn bọn lính này. Như một phản ứng dây chuyền, những người dân buôn bán chợ trời đang đi, thấy tụi tôi chạy, họ cũng hoảng hồn chạy tán loạn luôn. Tôi bèn ra dấu đón một xe đạp để xin quá giang về lại phía Sisophon, nhưng tôi bị bọn đi xe đạp đá văng luôn. Tôi la lên:

”Bòn ơi! Bòn ơi!” (Anh ơi! Anh ơi!)

Vừa chạy, tôi vừa nhìn lại để xem bọn lính có rượt theo không thì thấy họ không thèm rượt. Người dẫn đường không chạy, ba người bạn đồng hành là Thuần, Minh, và Bòn cũng không chạy. Tôi hơi mừng nên nằm trong một bụi cây để lén ngó về phía mấy người lính ấy.

Khi đó, bọn lính chỉa súng kêu ba người bạn của tôi đến để khám xét. Xét xong, bọn họ cho ba người ấy đi vào. Cùng lúc đó, người dẫn đường chạy về phiá tôi và ngoắc tôi um sùm. Tôi không dám chạy về phiá đó nên cũng ngoắc hắn lại gần. Bọn lính kia là lực lượng Pol Pot. Tôi hỏi người dẫn đường:

-Ho là lực lượng nào? Cộng sản Nam Vang hay Pol Pot?

Anh Miên trả lời:

-Đó là lực lượng Pol Pot.

-Họ có giết mình không?

-Không!

Tôi không tin lời hắn nên bắt hắn giơ tay thề là đã nói thật. Xong hắn dắt tôi với người bạn đi về phiá lính Pol Pot. Bọn lính này dắt tôi vào bụi rậm để xét hành lý của tôi. Chúng lấy hết thuốc trụ sinh của tôi, còn bình nước và nhúm lương khô thì chúng không lấy.

Sau đó, chúng bắt tôi cởi quần áo ra để chúng xét lấy vàng. Chúng banh hậu môn tôi ra để tìm của qúy. Người bạn tôi cũng bị xét như vậy. Thế rồi chúng chỉ vô phía trong rừng và nói với tôi:

”Tâu Xiêm!”, tức là đi Thái Lan.

Vì đã mỏi mệt và mất tinh thần quá rồi, nên chỉ đi độ năm trăm thước là tôi dừng lại và bàn chuyện với người đẫn đường và người bạn. Còn ba người kia đã bỏ đi mất hút về phía trước.

Tôi bèn quay lại bảo người dẫn đường bằng tiếng Pháp pha trộn:

-Tới đây rồi bây giờ anh có cách nào dắt tôi về lại Sisophon và giao tôi cho chủ cũ được không? Đi thêm nữa chắc chết quá!

Anh Miên dẫn đường cố khuyên nhủ tôi:

-Thôi đừng có dại, Pol Pot là bạn chứ không phải là thù đâu. Cứ việc đi vào đi, không có sao hết!

-Anh có bảo đảm với tôi là Pol Pot sẽ không giết tôi không?

-Thì anh thấy đó, họ đâu có giết anh đâu. Họ thả anh ra đó!

Tôi rất lo âu vì từ hồi nào đến giờ, cái tiếng xấu của Pol Pot về nạn diệt chủng thì tôi nghe đã nhiều rồi. Lại đã ở tù dưới chế độ Cộng Sản rồi nên bây giờ tôi sợ ghê lắm.

May là anh Miên dẫn đường này có giấy giới thiệu của Pol Pot nên đến trạm nào, anh ta cũng trình giấy và được đi lại dễ dàng. Anh ta là em trai của bà Miên mà bà ta lại ở trong tổ chức kinh tài của Pol Pot. Tuy nhiên, không phải vì anh ta có liên hệ với Pol Pot mà chúng tôi không bị lục xét. Có lẽ cũng nhờ hắn có liên hệ với Pol Pot mà chúng tôi không bị giết hại như nhiều người tị nạn Việt khác.

Lúc đó, chúng tôi đã đi vào làng của Pol Pot, thuộc vùng an toàn. Tôi vốn đa nghi nên nằng nặc đòi trở về Sisophon. Anh Miên kia thì cứ dỗ dành tôi đừng về vì về là dại lắm. Tôi lại quay ra bàn chuyện với người bạn đồng hành thì anh này nói:

”Thôi kệ, đã lỡ rồi, cứ đi luôn, đừng về nữa!”

Chúng tôi lại tiếp tục đi sâu vào khu làng Pol Pot. Càng đi sâu vào, tôi càng cảm thấy thân phận dân tị nạn chúng tôi còn khổ và nhục nhã thua một con chó. Cứ vài bước lại có một trạm gác. Bọn lính Pol Pot lại bắt chúng tôi cởi áo quần ra cho chúng khám xét.

Lục xét cả hậu môn. Chúng “làm thịt” chúng tôi thật kỹ. Trong lúc ấy, anh chàng Miên dẫn đường đứng chờ cho bọn chúng xét chúng tôi. Chúng tôi đã mệt quá sức và uể oải vô cùng.

Cơn khát đến làm chúng tôi chịu hết nổi. Đi dọc đường, gặp nước gì thì chúng tôi uống đại nước ấy. Có những chỗ gặp người ngồi bán nước ngọt, xi rô hay nước đá, tôi thèm nhỏ dãi. Người dẫn đường của tôi cũng thuộc loại người tử tế nên anh ta trả tiền để chúng tôi được uống nước xi rô ngọt. Uống một ly không đủ, tôi uống đến hai ly.

Càng đi sâu vào trong rừng, chúng tôi càng gặp nhiều trạm gác. Tới trạm nào, chúng tôi cũng bị lôi ra lục xét để kiếm vàng. Bị xét mãi, chúng tôi đến phát chán và cảm thấy nhục nhã. Tới đây đã thuộc vùng kiểm soát của Pol Pot. Đạn giao tranh bay ào ào, chắc là có đụng độ giữa Pol Pot và Việt Cộng.

Trên đường đi, người dẫn đường gặp rất nhiều người quen với anh. Bởi vậy, anh ta hỏi thăm tin tức người chị gái của anh, tức là người phụ nữ ở trong tổ chức. Người quen cho biết là chị của anh sắp đến rồi. Tôi nghe anh ta dịch lại lời đó thì mừng vô cùng.

Lúc còn ở Sisophon, bà này đã dặn chúng tôi là sáng hôm sau hễ chúng tôi đi tới đâu sẽ gặp bà ta tại đó. Bà này đi xe đạp với người bạn biết tiếng Miên của chúng tôi.

Tuy mừng nhưng tôi vẫn nghi anh chàng kia đặt chuyện để chúng tôi yên lòng. Chúng tôi vẫn cắm cúi đi tiếp đến độ hai giờ trưa. Lúc ấy trong bụng tôi đói cồn cào vì chưa có một hột cơm nào cả. Vừa lúc ấy, bà chị của anh dẫn đường vừa đạp xe tới cùng với người bạn đồng hành của tôi. Anh này thấy chúng tôi nhưng không dám nhìn và đạp tới trước luôn.

Thấy bà ta, tôi mừng hết lớn, bèn than van với bà ấy:

-Mệt quá, đi hết nổi rồi chị ơi!

Bà này liền đứng lại đón xe bò để chúng tôi leo lên ngồi. Người chở xe bò cũng không dám chở chúng tôi nên anh dẫn đường phải đưa giấy đi đường của Pol Pot cấp cho anh để anh xe bò xem. Bà Miên còn móc túi trả tiền xe cho chúng tôi.

Hên thật, ngồi trên xe bò, tôi duỗi thẳng chân ra và thở một hơi dài khoan khoái. Lúc ấy mới thấy thoải mái. Tôi có cảm tưởng như mình đang được đi xe hơi Mercedes vậy. Ba người bạn: Thuần, Minh và Bòn cũng leo lên xe bò đi chung.

Ngồi trên xe bò, chúng tôi vẫn không yên thân với bọn lính Pol Pot. Tới mỗi trạm, bọn lính này lại kêu lên:”Dzun!” (có nghĩa là người Việt Nam) và họ bắt chúng tôi xuống xe để họ khám xét. Mỗi lần chúng tôi bị lục xét thì người đánh xe bò cũng chịu khó đứnglại chờ chúng tôi.

  Làng Mạc Của Lính Pol Pot Ở Vùng Biên Giới Thái Và Cambodia.


Đến gần tối, xe bò đưa chúng tôi vào một khu chợ trời biên giới ở trong vùng của Pol Pot kiểm soát. Khu này cách biên giới khá xa. Người Miên buôn bán tấp nập, nào là quán cơm, quán bán giày dép , vải vóc và mọi thứ tạp hóa.

Lúc ấy, tôi đã tưởng là đến biên giới Thái và Cambodia rồi nên chúng tôi mừng rỡ. Khu này có bí số là vùng 007, đó là trại Non Makmun thì phải. Đây cũng như là căn cứ địa của Pol Pot vì có nhiều lính tráng.Họ ăn mặc rất xốc xếch: quần dài, quần cụt, quần xà lỏn. Vải màu, vải dù, hoặc đồ đen nội địa. Có người thì quấn xà rông, đi dép râu và đeo súng do Trung Cộng chế tạo.

Tới đây coi như hết đường đi tiếp nên chúng tôi năm người lại gặp nhau. Bà dẫn đường lúc ấy mới kể là khuya hôm trước, khi vừa lạc chúng tôi, hai người cộng sự viên của bà đã về lại Sisophon để báo cáo rằng họ lạc mất chúng tôi. Vì thế, bà ta phải đi kiếm tìm chúng tôi. Xong, bà ta kêu cho chúng tôi năm dĩa cơm lớn để ăn. Bụng thật đói nhưng chúng tôi không ăn nhiều được.

Khi vô làng Pol Pot, chúng tôi gặp rất nhiều người tị nạn Việt Nam ở đó. Có thể xem như đó là nơi tụ họp của người tị nạn. Một chập, tôi lại thấy bọn lính tay cầm súng, đem theo một đám người mới vào trại. Rồi lại có những nhóm người khác được lần lượt đưa vào.

So sánh với những nhóm người tị nạn Việt khác thì nhóm năm người chúng tôi được ưu đãi hơn hết vì người dẫn đường của chúng tôi là tay hoạt động kinh tài cho bọn lính Pol Pot.


1/ Pol Pot ngược đãi, hành hạ và hãm hiếp người tị nạn Việt Nam.


Tuy vậy, chúng tôi cũng chịu nhiều nhục nhã, chẳng hạn như lúc đang ngồi ăn thì một thằng lính trẻ, cỡ mười ba, mười bốn tuổi đến chỉa súng khều chúng tôi đi theo để cho nó khám xét.

Lúc ra đi, mẹ tôi đưa cho tôi hai chỉ vàng để làm của hộ thân. Tôi đem theo để lỡ có bị bắt giữa đường thì đưa ra hối lộ để được đi tiếp. Còn các bạn tôi, ai cũng đem theo một hai chỉ để phòng hờ.

Khi còn ở Sisophon, chúng tôi đã dò hỏi tin tức nơi bà dẫn đường. Bà ta cho biết là đem vàng theo dọc đường vượt biên thì rất nguy hiểm. Vì thế, bà ta đề nghị chúng tôi đưa hết vàng cho bà ta giữ giùm, rồi khi đến trại tị nạn, bà ta sẽ hoàn trả lại cho chúng tôi xài sau.

Khi đến làng Pol Pot, chúng tôi thấy bọn lính xét kỹ quá nên không dám đòi số vàng từ bà kia. Nhưng trong bọn chúng tôi, có người lại tưởng là đến biên giới rồi nên mở miệng đòi vàng lại. Bà Miên không chịu trả và cho biết là ở đây chưa trả được, hãy cố đợi khi đến nơi đã. Lúc ấy, chúng tôi tất cả đều nghi rằng bà ta muốn đoạt số vàng của mình.

Ăn vừa xong thì bà Miên trả tiền cơm. Vừa lúc ấy, bọn lính Pol Pot bắt một nhóm ba bốn người để đi xét của. Nhóm có đủ đàn ông, đàn bà và con nít. Khi đi gần đến chỗ chúng tôi, các nhóm kia hỏi nhỏ và tỏ ra rất ngạc nhiên khi thấy chúng tôi được ưu đãi hơn bọn họ.

Trong khi bọn họ phải ngồi dưới đất thì chúng tôi được ngồi trên ghế, lại còn được ăn uống thỏa thuê. Một anh tị nạn tới nói nhỏ với tôi để xin cho anh ta ăn cơm. Tôi liền xin bà Miên cho họ ăn cơm. Bà ta bằng lòng cho các người ngồi gần đó ăn cơm và trả luôn tiền cơm cho bọn họ.

Sau đó vì thấy chúng tôi quá mỏi mệt, bà Miên nói với bọn lính Pol Pot để họ cho phép bà ta mướn xe đạp chở chúng tôi vô sâu trong sào huyệt của Pol Pot. Trong khi các người khác phải lội bộ đi vào trong đó thì chúng tôi được đi xe đạp. Xui cho tôi là người chở xe đạp rất dã man. Người ta thuê nó để nó chở tôi. Nay nó lại bắt tôi chở nó. Vì đã thức khuya và lo âu nhiều đêm nên tôi mệt đến muốn xỉu. Tôi đạp xe mà té liên tiếp. Thằng kia ngồi đàng sau vẫn tỉnh bơ.

Sau cùng, bà Miên thấy cảnh tình tôi quá tội nghiệp, bà ta liền kêu thằng xe kia qua đi xe của bà, còn bà ta thì đi xe của nó và chở tôi phiá sau. Đã tưởng yên thân, nào ngờ bọn lính Pol Pot trên đường đi thấy tôi ngồi phía sau, bọn chúng bắt buộc tôi phải chở bà ta chứ không cho bà ta chở tôi.

Đạp một đỗi thật xa thì chúng tôi đã vào sào huyệt của Pol Pot. Xuống xe là tôi mệt lả. Thằng lính nào thấy chúng tôi mới đến cũng xét thật kỹ. Quần áo mình đem theo, chúng lựa cái tốt lấy hết. Đôi dép râu còn tốt của tôi, chúng cũng đổi vì nghi là tôi dấu vàng trong dép. May cũng nhờ bà Miên có tiền mua chuộc bọn lính nên bà mới nhờ bọn chúng nấu cơm và mang cá khô ra cho chúng tôi ăn.

Đêm ấy, tôi trở bịnh tưởng chết rồi. Tôi chỉ ăn có một chút nhưng rồi nôn ói ra hết. Lúc ấy, tôi mới hối tiếc là đã ngu nên bị gạt để đến sào huyệt Pol Pot cho chúng giết hại mình. Cái tiếng xấu của bọn Pol Pot còn mãi từ hồi trước đến giờ.

Tôi bèn nói bà Miên xin bọn Pol Pot cho tôi thuốc để uống cầm bịnh. Lúc khoảng 11:00 giờ khuya, bọn Pol Pot lùa tất cả chúng tôi vào một cái lều để ngủ chung giữa cảnh rừng bao la. Sau đó tôi mới thấy thoải mái một chút.

Chỗ tôi ngủ đêm hôm ấy coi như là trạm đầu tiên. Sáng hôm sau, họ gởi chúng tôi đến trạm thứ hai. Nơi này được xem như một bản doanh nhỏ của lính Pol Pot. Trên đường di chuyển, tôi thấy các khu nhà của người Miên tị nạn ở rất sầm uất và đông vui.

Trở lại chuyện bà Miên dẫn đường: Khi tôi tới trại có thằng độc nhãn thì bà ta đã hết trách nhiệm vì bà ta đã giao chúng tôi cho Pol Pot. Trước khi chia tay, bà ta nói là bây giờ an toàn rồi, nên bà ta trao trả số vàng bà đã cất hộ cho tụi tôi để tụi tôi xài.

Tôi nghĩ nếu mình có lấy số vàng ấy lại thì cũng bị bọn Pol Pot cướp mất thôi, chi bằng nhờ bà ta đem số vàng ấy về giao trả lại cho gia đình tôi thì tốt hơn. Thế là tôi lên tiếng nhờ bà ấy đem hai chỉ vàng về trả cho má tôi. Các bạn tôi cũng nghĩ như thế. Cuối cùng, ai cũng nhờ bà Miên đưa vàng về lại cho người nhà của họ. Sau này, má tôi viết thư cho biết là bà Miên đã trả đủ cho má tôi số vàng ấy.

Tại trạm thứ hai này, chúng tôi thấy sợ hãi nhiều hơn. Bọn lính Pol Pot cho chúng tôi ngồi chờ trong cái chòi nhỏ từ sáng đến trưa. Trưa đến chúng đem ra cho chúng tôi một thùng cơm và vài nhúm muối. Nhìn thấy đàn ruồi bu cơm đen đặc nhưng vì đói quá nên chúng tôi bốc cơm ăn đại cho đỡ cơn đói.

Ăn xong, chúng tôi ra dấu xin nước uống, chúng bèn xách một thùng nước đục ngầu ra cho chúng tôi uống. Thế là mạnh ai nấy đều bưng cả thùng nước uống một cách ngon lành chứ chẳng ai có ly hay tô để múc nước cả.

Khoảng hai giờ chiều, sau khi ăn xong, tôi tò mò ngó nhìn quanh quất thì thấy ở phía xa có một chòi nhốt hai hay ba người tị nạn Việt Nam. Tôi nhìn qua phía khác cũng lại thấy một chòi nhốt hai ba người tị nạn khác. Đến chiều hôm ấy thì bọn Pol Pot giải một nhóm gồm chín người tới. Trong nhóm ấy chỉ có một người đàn bà, còn bao nhiêu là đàn ông và con trai. Người đàn bà ấy là chi Đ., chị là người mẹ đã lạc mất đứa con gái sáu tuổi trên đường vượt biên. Hiện nay chị Đ. ở Tulsa, Oklahoma,USA, còn con gái chị vẫn mất tích từ tháng 5,1980 đến nay.

Chiều hôm ấy, bọn Pol Pot tập trung mười bốn người tị nạn Việt lại và để cho ở chung trong một cái chòi lớn. Chúng tôi vì có đông người nên nói chuyện vui vẻ. Câu chuyện nổ như pháo rang.

Tôi được biết chị Đ. bị hãm hiếp rất nhiều lần. Thường thường thì bọn Pol Pot hãm hiếp chị tập thể, ngay trước mắt các bạn đồng hành ở hung một toán với chị ta. Nghe đâu chị Đ. bị bắt đã lâu rồi, nay mới được giải giao về trạm này để chúng làm thủ tục điều tra.

Suốt trong mấy ngày trời ở trạm này, đêm nào chị Đ. cũng bị bọn lính tới làm phiền và phá phách. Ngay đêm đầu tiên, chúng tôi xếp cho chị Đ. nằm ở giữa cái sàn, chung quanh là các cậu thanh niên nhỏ. Còn các người đàn ông lớn tuổi thì nằm chung quanh sân, nhưng nằm ở sàn đất vì cái sàn chỉ đủ chỗ cho bốn năm người ngủ mà thôi.

Ở sào huyệt này, đa số bọn ”lục thum” đều có vợ. Có một số lính cũng có vợ, nên chỉ có những thằng lính trẻ măng cỡ mười ba, mười bốn vô giáo dục, lại chưa biết gì về sinh lý thì chưa có vợ thôi. Vì thế, bọn chúng coi nạn nhân như thú vật. Chúng hành hạ và làm nạn nhân bất mãn và cảm thấy bị sỉ nhục, bị xúc phạm đến nhân cách. Chúng lại hay làm ẩu.

Vì thế, chúng tôi luôn căn dặn chị Đ. phải để đầu tóc rối bù, trét bùn vào mặt, ăn mặc xốc xếch để bọn chúng chán mà không ngó ngàng đến chị nữa thì may ra chị mới được yên thân.

Lúc đó, tuy không ai chỉ định người nào làm trưởng nhóm, nhưng tôi thấy mình có trách nhiệm. Vả lại, tôi cũng thấy mình có kinh nghiệm và sự hiểu biết chút ít nên tôi thường đứng ra chỉ dẫn, điều động và liên lạc.

Thoạt đầu, mới gặp chị Đ., tôi nhận thấy chị tơi tả, mệt nhọc, chân thì sưng phồng mọng nước nên đi không nổi mà phải lết bò, tôi đã biết chắc chắn là chị bị chúng làm nhục nhiều lần rồi. Vì thế tôi mới tìm cách sắp xếp chỗ ngủ cho chị ta.

Đã tưởng như vậy là yên, ai ngờ cỡ một, hai giờ đêm, bọn lính Pol Pot tới chòi tôi, rọi đèn pin để lùng kiếm chị Đ. Rồi đêm nào cũng vậy, bọn chúng kéo chị ta ra khỏi chòi để làm nhục chị.

Có một đêm,bọn chúng làm dữ. Thằng xếp chỉ huy bọn lính Pol Pot ở trạm đó chỉ còn có một mắt, chúng tôi thường gọi hắn là thằng Độc Nhãn. Thằng này rất hận thù Việt Cộng và quân đội của Việt Nam Cộng Hòa cũ. Đêm ấy, hắn kéo lính tới chòi của tôi để lôi kéo chị Đ. ra ngoài chòi, cách đó không xa để hãm hiếp chị.

Bọn chúng cởi quần áo chị Đ. ra để vọc chơi, đùa giỡn và phá phách như mèo vờn chuột. Tôi nằm trong chòi nghe tiếng chị Đ. khóc lóc, năn nỉ và van xin chúng tha mà tôi chịu không nổi. Đó mới chỉ là đồng bào mình chứ chẳng phải là người nhà. Nếu là người thân của mình chắc là mình phải can thiệp thôi.

Đêm ấy, chúng không hãm hiếp chị. Tôi đoán chắc là sau một thời gian cực khổ lâu dài, lại không có nước để tắm gội, lại bị làm nhục nhiều lần nên người chị ta dơ dáy và hôi hám. Vì thế bọn chúng không thèm. Khi chị Đ. được giải đến chung trong nhóm tôi, khi ngồi gần chị thí ai cũng đã ngửi toàn là mùi hôi thối rồi.

Ban ngày thì chúng tôi phải ăn bốc cơm với mắm bồ hóc. Hễ đêm đến thì sợ cho chị Đ.. Vì thế, tôi rất mong được đi sớm để đến trại tị nạn. Thường thì cứ đến chiều tối lại có một đám thanh niên người Miên đến chơi với chúng tôi.

Trong nhóm tôi có một anh biết tiếng Miên, nên chúng tôi cứ nhờ anh này dịch lại những vấn đề mà chúng tôi muốn khai thác từ những cậu thanh niên Miên ấy. Chẳng hạn như bao giờ được đi chỗ khác, rồi nếu rời trạm này thì chúng tôi sẽ còn phải đi đến những nơi nào khác nữa…

Tôi và anh Minh rất khổ sở vì cận thị phải đeo mắt kiếng. Chính vì thế, nên bị thằng Độc Nhãn điều tra kỹ hơn, vì hắn nghi những người cận thị là kẻ học cao và có chức vụ lớn hơn.

Khi mở cuộc điều tra, thằng Độc Nhãn hù chúng tôi rất nhiều. Hắn tự nhận là nhân viên của đơn vị quốc tế chứ không phải của Pol Pot. Hắn muốn chúng tôi phải khai lý lịch thật và nói hết sự thật về nguyên quán và nghề nghiệp. Hắn hù là hắn sẽ cho nhân viên của hắn ở Việt Nam tìm hiểu quá khứ của chúng tôi. Nếu khai gian sẽ bị trừng phạt nặng.

Đã chuẩn bị kỹ nên tôi sắp đặt sẵn trong đầu là khi bị thẩm vấn, tôi sẽ giả dạng là người Tàu vì tôi biết tiếng Tàu. Vì thế, khi bị hắn thẩm vấn, tôi không dám khai mình là sĩ quan của Việt Nam Cộng Hòa, mà khai là thương gia ở Sàigòn. Tôi kể rất nhiều về việc làm ăn và buôn bán cho hắn nghe. Rồi lần lượt, từng người một đều bị hắn điều tra và thẩm vấn kỹ lưỡng.

Vì bị hành hạ và khủng bố tinh thần nên có một số thanh niên tị nạn âm mưu cùng nhắm hướng Thái Lan mà trốn đi. Vô phúc, bọn Pol Pot biết được, chúng báo động rồi bao vây, bắt lại được trọn ổ. Chúng lôi các nạn nhân ra đánh cho một trận tơi bời. Hiện nay, một trong những thanh niên bị đánh gần chết đó là anh T., anh đang ở thành phố Huntington Beach, California.

Thằng Độc Nhãn làm việc trong ba ngày, ba đêm. Đến ngày thứ tư, hắn ra lịnh cho giải giao mười bốn người chúng tôi đến sào huyệt chính của Pol Pot. Đường đi rất xa, phải băng qua cả núi rừng vì sào huyệt của chúng ở gần biên giới Thái hơn.

Trên đường đi, tôi không thấy xác người chết nhưng các người đi tới trước tôi kể lại là họ đã thấy tận mắt những xác chết nằm ngổn ngang ở dọc đường. Đàn ông, đàn bà và con nít đều chết thảm khốc bởi những vết đạn. Người họ dính dầy máu khô.

Dọc đường, đa số chúng tôi mệt nên không đi nổi, nhất là chị Đ., tội nghiệp cho chị ta, chị không còn lết được. Bọn Pol Pot độc ác dã man vô cùng. Chúng ra lịnh cho chúng tôi bằng mọi giá phải đưa chị ta đi. Chúng không cho phép ai được ngồi nghỉ hay chờ đợi. Như để thị oai, chúng giơ súng bắn chỉ thiên lên trời rồi dọa bắn chết hết nhóm mười bốn người chúng tôi nếu không ai chịu cõng chị Đ. đi.

Vì sợ bị bắn chết nên tôi xung phong cõng chị Đ. đi trước. Đi độ một hay hai trăm thước, tôi mệt quá nên bỏ chị ta xuống và yêu cầu người khác cõng chị đi tiếp. Ai cũng phải cõng chị Đ. đi cả. Duy chỉ có một mình anh Minh là nhất định không chịu cõng chị ấy. Anh ta viện cớ là anh đã quá mệt, đi còn không nổi, làm sao mà cõng thêm người khác đi nữa. Chị Đ. thì đã quá sức chịu đựng. Chị không còn đi được nữa vì chân chị sưng phù lên, nước bọng đầy ở các vết sưng đó.

Theo lời kể của những người đến sau chúng tôi thì trong nhóm đó có một phụ nữ người Hoa Chợ Lớn mang theo một cô con gái và một cô cháu gái ở lứa tuổi mười bảy, mười tám. Tới đó, thằng Độc Nhãn đã hãm hiếp hai cô gái này nhiều lần. Rồi sau đấy, bọn Pol Pot thay nhau lục xét, vọc chơi và hành hạ hai cô. Cứ hàng đêm hai cô trở về chòi và khóc sướt mướt.

Khi chúng tôi được giải qua trạm sào huyệt chính của Pol Pot thì tôi gặp một anh thanh niên Việt Nam tị nạn đã ở đấy từ lâu. Chúng tôi cùng tấp vào ở chung với anh ta. Lúc này, bọn lính ở đây ra nhận chúng tôi rồi chúng chia lều cho chúng tôi ở. Sau đó, chúng dặn dò và hăm dọa chúng tôi không được đi ra khỏi vùng của chúng vì vùng này có gài mìn, nếu đi lang thang sẽ bị đạp mìn chết ngay.

Cũng nên nói thêm về sự dã man và tham lam của bọn ”lục thum” Pol Pot ở sào huyệt chính, gần biên giới Thái Lan. Ban ngày thì không sao nhưng đến đêm là bọn họ lôi chúng tôi đi tra xét để lột vàng và đồ qúy.

Khi đám chúng tôi yêu cầu bà Miên dẫn đường đem vàng của chúng tôi về trả lại cho thân nhân ở Việt Nnam thì bọn Pol Pot đều biết là chúng tôi không còn gì cả.

Nhưng có một nhóm người tị nạn đến sau nhóm năm người chúng tôi. Họ vốn là chủ xe vận tải chuyên đưa mối vượt biên và còn mang vàng bạc đi vượt biên luôn, như anh H. và anh S. tới thì bọn Pol Pot hoành hành dữ dội. Lúc vừa đến, vì là chỗ quen biết , các anh H. và S. dò hỏi thăm tôi về tình hình bọn Pol Pot xấu hay tốt. Tôi nói rằng có một ”lục thum” trẻ của Pol Pot ăn nói tử tế.

Sau đó, bọn anh H. và S. lôi vàng ra nhờ các cô gái Miên ra chợ mua giùm vài cái trứng vịt để về ăn với cơm. Từ hôm đó, đêm nào cả toán chúng tôi cũng bị lôi đi để lục xét vàng. Hễ cứ độ 12:00 giờ hay 1:00 giờ khuya là Pol Pot bắt từng người ra xét. Chúng lấy tay để thọc hậu môn mà kiếm vàng. Tôi may mắn ít bị xét hơn. Sau này, chúng tôi mới biết là có kẻ trong nhóm làm ”ăng ten”, báo cáo cho lính Pol Pot về những ai dấu vàng chưa đưa hết cho chúng.

Chúng tra xét những người mới tới mà còn dấu vàng. Chúng còn hăm dọa đòi bắn chết nếu không nộp hết vàng cho chúng. Những người tị nạn mới tới ấy cũng rất khôn. Họ lén chôn vàng ở gốc cây nhưng ngày nào cũng bị tra xét dữ dội nên cuối cùng, họ đành giao hết số vàng cho bọn lính Pol Pot.

Trường hợp anh Minh dấu vàng trong hàm răng gỉa, vậy mà bọn Pol Pot cũng tìm ra và cướp mất. Điều này chứng tỏ là có bọn ”ăng ten” ngay trong nội bộ của dân tị nạn. Trong nhóm mười bốn người chúng tôi thì có chín người không có vàng và năm người còn dấu được vàng. Vì thế, năm người này bị Pol Pot chiếu cố kỹ lưỡng.

Cứ đến khuya là bọn chúng đến chòi, rọi đèn pin vô mặt từng nạn nhân rồi lôi kéo họ đi đến chỗ khác, bắt cởi quần áo để mò và xét. Có khi chúng trói thúc ké nạn nhân và tra hỏi cho kỳ được. Chúng quần thảo nạn nhân quá sức đến độ nạn nhân chịu hết nổi mà lòi vàng ra.

2/ Lao động khổ sai tại trại tù của lực lượng Pol Pot.

Từ đó, cứ mỗi ngày bọn lính Pol Pot đều phân công cho nhóm dân tị nạn chúng tôi làm công tác lao động khổ sai như vác củi, đào hầm hố, giao thông hào, hầm chiến lược và đi tải gạo.

Chúng tôi sợ nhất là công tác tải gạo. Từ sào huyệt của Pol Pot đến nơi để lấy gạo về thì rất xa, tôi không thể biết là bao cây số, nhưng chúng tôi phải đi cả nửa ngày mới tới nơi. Đó là nơi hội HTTQT phát gạo cho dân Miên. Nơi này có rất nhiều trại tị nạn của người Miên. Gạo được phát rất nhiều, nhiều đến nỗi phải chất từng trăm bao gạo ở ngoài ruộng rồi họ lấy vải lều để đậy lên. Trông những bao gạo nhiều đến phát mê luôn.

Chúng tôi phải lội bộ mà vác gạo về. Không có bao để đựng. Vì có kinh nghiệm ở tù Cộng Sản Việt Nam nên tôi chỉ cách cho các bạn cởi quần dài ra, túm hai ống quần lại rồi bỏ gạo vô đó để vác về trạm.

Thật tội nghiệp cho các cậu thanh niên mới lớn lên. Bọn họ đi không nổi vì mệt và phải vác nặng. Họ té lên té xuống. Mỗi lần họ bị té là bọn Pol Pot cầm roi đánh túi bụi, trông họ y như một con thú vật bị chủ hành hạ.

Vác gạo bằng cách cột ống quần thì không đem về được nhiều gạo. Nhưng chúng tôi vẫn phải bị bắt buộc làm như thế. Chúng không cấp cho xe bò để chở dễ dàng hơn. Hình như chúng chỉ muốn hành hạ dân tị nạn Việt Nam cho bỏ ghét.

Lại nữa, chúng tôi rất sợ bị Việt Cộng tấn công vào khu này. Nếu họ tới thì chúng tôi không có chỗ chạy, nếu chạy lạng quạng lại bị đạp mìn. Đêm đêm chúng tôi đều nghe tiếng súng nổ rất gần. Súng nổ thật lớn, mỗi lần nghe tiếng súng nổ là chúng tôi lo thu dọn hành trang để kiếm hướng Thái Lan mà chạy trốn.

Có một lần, trong lúc làm công tác tải gạo, tôi làm quen với một người làm việc cho xe vận tải chở gạo từ Thái Lan qua. Tôi hỏi anh ta là từ đó đến Thái có xa không. Anh ta cho biết là gần lắm. Thế là tôi mang ý định trốn khỏi vòng kềm kẹp của Pol Pot.

Công tác tải gạo làm chúng tôi ớn quá, lại thêm ở trong vùng giao tranh nguy hiểm quá. Mỗi ngày thấy máy bay đi qua lại trên đầu, chúng tôi đoán là máy bay của Thái, mà Thái lại ở gần đây, hay là trốn qua Thái? Nhưng phải đi đường nào để cho trót lọt mới được.


3/ Nạn bị khủng bố tinh thần.


Tại sào huyệt này, có một tên lục thum của Pol Pot rất tử tế. Ông ta thường dỗ dành chúng tôi:

”Thôi, đừng có lo, nếu cần gì thì để tôi giúp cho!”

Trong khu ấy, có một người Miên biết tiếng Việt rất rành nên ông ta thường đến để điều tra chúng tôi. Cũng giống như ở trạm thứ hai, ông ta hỏi xem mỗi người chúng tôi làm gì, ở đâu, tên tuổi, nguyên quán, nghề nghiệp, lý lịch, thuộc thành phần nào, là quân nhân của Việt Nam Cộng Hòa, cán binh Việt Cộng hay dân sự. Ông ta dụ dỗ đủ thứ và xen lẫn đe dọa nữa.

Nào là nếu ở trong ba thành phần vừa kể thì phải nói cho ra mình thuộc thành phần nào. Nếu là quân nhân VNCH thì rất hên vì họ sẽ cho qua trại tị nạn liền, qua bên đó lại còn được lương hướng nữa. Còn nếu là cán binh Việt Cộng thì cũng nên nói sự thật, sau đó cũng sẽ cho qua trại tị nạn. Còn nếu là dân sự thì sẽ bị ở đây lâu lắm, chậm được qua trại tị nạn nhất.

Khi nghe hắn nói vậy, tôi suy nghĩ nhiều. Phải đấu trí với chính mình:

”Có thể hắn dụ mình đây chăng? Hễ mình nói mình là sĩ quan VNCH chắc hắn sẽ giết mình. Có nên nói thật hay dấu tông tích? Tụi nó có nguy hiểm không? Đã có bao nhiêu người bị giết hại vì khai thật tông tích?”

Vì thế, tôi không dám đi để cho bọn Pol Pot điều tra trước mà đợi các cậu thanh niên đi trước về báo cáo xem tình hình điều tra ra sao đã. Bọn chúng điều tra một ngày chỉ có vài ba người. Ai chuẩn bị tốt thì lên làm việc sớm. Ai chưa sẵn sàng thì lên làm việc sau.

Ở toán tôi, có anh Minh có tài coi bói. Vì thế Minh thường dùng tài coi bói của mình để vừa coi bói, vừa coi cho bọn lính Miên, vừa dò hỏi xem tình hình xem ở đó có nguy hiểm hay không. Qua nhiều lần dọ hỏi khéo léo, chúng tôi được biết là toán chúng tôi là toán thứ bao nhiêu rồi không rõ, rằng đã có rất nhiều toán trước đó đã đi được qua trại tị nạn rồi.

Biết được vậy, chúng tôi rất mừng vì còn có hy vọng đến được trại tị nạn. Điều tra, khai thác tin tức từ bọn lính Miên, chúng tôi biết thêm là nếu mình khai là quân nhân VNCH thì không có gì nguy hiểm cả. Thế là tôi quyết định khai thật mình là đại úy của chế độ cũ. Tôi còn hô hào anh em bạn khai thật họ là quân nhân luôn vì đa số là quân nhân.

Trong nhóm tôi có một anh là cán binh Việt Cộng bị Pol Pot bắt. Dĩ nhiên anh này không thể nào chối cãi được tông tích của mình vì ai cũng biết anh ta là bộ đội Việt Cộng.

Khi vào điều tra, bọn Pol Pot sắp loại chúng tôi ra ba chỗ. Quân đội VNCH ở một bên. Cán binh Việt Cộng ở một bên. Còn dân sự ở một bên. Khi tôi bị thẩm vấn thì hắn hỏi tôi cấp bậc gì, làm việc ở đâu, ở vùng nào nơi Sàigòn, trước năm 1975 thì tôi làm gì và ở đâu, sau năm 1975 thì tôi làm gì và ở đâu.

Sau khi hỏi xong, hắn còn bắt tôi phải viết một tờ trình về tiểu sử cá nhân, cấp bậc, lý do tại sao mà vượt biên, rồi phải dùng lời lẽ đả phá Cộng Sản. Thế là tôi về chòi để ”vẽ” ra đủ thứ. Tôi sợ khai tên tuổi thật sẽ bị nguy hiểm nên tôi khai tên giả. Vừa viết, tôi vừa lo sợ họ sẽ dùng tờ trình của chính tôi để làm bằng chứng mà xử tử tôi vì tôi biết Pol Pot chẳng ưa gì quân đội VNCH.

Viết xong tôi đem nộp cho ông Miên biết tiếng Việt đó. Hắn nói là để hắn về nghiên cứu đã. Qua ngày sau, hắn bảo là tôi viết tốt. Xong hắn bảo tôi chiều hôm đó phải đọc tờ trình vào cuộn băng. Tôi hết hồn nên hỏi hắn:

”Đọc vào đó để làm gì vậy?”

Hắn đáp:

”Để làm tài liệu.”

Tôi run quá, nên lo sợ đủ thứ. Trong khi ấy, anh cán binh Cộng Sản cũng phải viết tờ trình và nói để thâu thanh vào băng nhựa. Tôi được cử làm đại diện cho nhóm quân nhân để đọc quyết nghị chung. Đại khái đọc tên và cấp bậc của từng người quân nhân, chửi phe Lê Duẩn (Việt Cộng). Đến lượt anh cán binh Cộng Sản cũng phải đọc lời quy thuận phe Pol Pot. Cuối cùng, nhóm dân sự cũng đọc một kiến nghị của nhóm họ.

Xong đâu đấy, tôi thừa dịp dò hỏi luôn:

-Chừng nào các anh giải chúng tôi qua trại tị nạn?

-Phải đợi ”Mấy thằng Tây”qua lãnh mới cho đi được!

Bọn họ gọi nhân viên hội HTTQT là ”Mấy thằng Tây”. Về chòi, tôi nhờ Minh nếu có dịp coi bói thì hỏi thăm bọn lính Pol Pot Miên xem có bọn ” Mấy thằng Tây” tới đây không?

Bọn họ trả lời là ”Mấy thằng Tây” cũng hay qua đây lắm.

Sau đó, bất chợt có một viên sĩ quan người Thái Lan lái xe Jeep đến trại đó chơi. Ông này trước có chiến đấu ở Việt Nam. Ông đã đóng quân ở Vũng Tàu, và biết được tiếng Việt Nam. Ông ta có vẻ vui tính, ca hát luôn miệng. Trong đó có câu hát nhái theo một bài nhạc của người Việt:

”Cô Mười, cô Chín, hai cô anh thích cô nào?”

Thấy vậy, tôi cảm thấy vững tâm hơn vì biết rằng ở đây gần Thái Lan thật, nên không đáng sợ nữa.


4/ Được hội HTTQT cứu vớt:


Vài ngày sau, một người Âu Châu tìm đến. Ông ta đậu xe ở ngoài xa, còn tên ”lục thum” chở ông ta vào trạm này bằng xe gắn máy Honda. Thấy bóng dáng một người Âu Tây thì lòng chúng tôi mừng khôn xiết vì đoán chắc là sẽ được ông ta dẫn đi qua trại tị nạn.

Bấy giờ, ”lục thum” Pol Pot và Ông Âu Tây kia lên phòng làm việc. ”Lục thum” sai một đệ tử xuống chòi kêu chúng tôi cử một người đại diện lên. Mọi người bèn đề nghị cử tôi lên nói chuyện với họ. Tôi viện cớ không biết tiếng Miên để kéo theo một anh bạn nói rất rành tiếng Miên và Việt.

Khi gặp ông Âu Tây kia mà cho đến nay tôi chưa được biết tên, thì ”lục thum” Pol Pot giới thiệu với tôi rằng ông Tây đó là người đại diện cho hội HTTQT, còn tôi là người đại diện cho người tị nạn.

Tôi bập bẹ vài câu tiếng Pháp để trao đổi câu chuyện. Qua đó, tôi biết là ”lục thum” muốn tôi phải nói cho nhân viên Hội HTTQT biết là ”lục thum” Pol Pot đối xử tốt với dân tị nạn Việt.

Tuy vậy, tôi vẫn tỉnh bơ để làm theo ý mình. Khổ nỗi vốn liếng tiếng Pháp của tôi rất ít vì tôi đã quên hết cả rồi. Vì thế, tôi hỏi nhân viên hội HTTQT có biết tiếng Anh không. Khi ông này bảo là biết tiếng Anh thì tôi bèn dùng Anh ngữ để kể lể cảnh cực khổ của dân tị nạn.

Tôi kể là chúng tôi đã phải ở tại đây gần một tháng rồi. Bữa ăn không có đồ ăn mà chỉ có cơm gạo mà thôi. Vì không có chỗ để ngủ nên chúng tôi phải vào rừng cắt lá và cưa cây để cất cái chòi mà ở. Tối đến, phải trải lá lót nằm mà cũng không đủ chỗ để ngủ.

Vào những đêm mưa thì nước chảy lênh láng, không thể nằm được nên chúng tôi phải đứng suốt đêm, người nào cũng ướt như chuột lột và lạnh run lên. Chúng tôi phải gom củi và đốt thành lửa để sưởi ấm và đánh tan cái lạnh. Mùa đó là mùa mưa nên mưa dai dẳng.

Đa số dân tị nạn vì khổ sở nên bịnh cả. Còn tôi may nhờ có sức khỏe nên chưa gục ngã. Rồi sau đó, tôi năn nỉ ông ta cứu vớt lấy chúng tôi, còn nếu để lâu chắc chúng tôi chết hết vì sự đọa đầy tâm hồn và điều kiện sinh sống quá cơ cực.

Nãy giờ thấy tôi vừa nói vừa ra dấu, cho nên dù không hiểu tiếng Anh, ”lục thum” Pol Pot cũng đoán được phần nào nội dung câu chuyện. Vì thế, anh ta xỉ ngay vào mặt tôi và gằn giọng bằng tiếng Việt:

-Đồng chí nãy giờ nói xấu tụi tui, tui cho đồng chí ở đây luôn!

Tôi nghe vậy nên sợ điếng hồn, bèn lật đật nói:

-Không! Không! nãy giờ tui đâu có nói xấu gì đồng chí đâu? Tôi nói tốt lắm, không tin đồng chí hỏi ông này đi!

Thấy tôi phản ứng lẹ quá nên đồng chí ”lục thum” có vẻ tin. Tuy vậy, hắn cũng không cho chúng tôi đi vì nhóm chúng tôi chỉ mới có mười bốn người nên chưa đủ số. Hình như hắn muốn đợi cho có đủ năm mươi người thì hắn mới giao cho Hội HTTQT.

Người nhân viên của hội HTTQT bèn nói với hắn:

-Mỗi lần qua đây đón người tị nạn thì tôi phải thuê xe cộ. Nay ông không cho họ đi, tôi cũng vẫn phải trả tiền phí tổn xe. Như vậy có lẽ còn lâu lắm, tôi mới qua được nữa.

Tôi nghe vậy nên mừng lắm, bèn tiếp tục năn nỉ ông ta làm cách nào thuyết phục ”lục thum” Pol Pot để hắn cho chúng tôi đi, bằng không thì ở đây quá sức nguy hiểm, chắc rồi chúng tôi cũng sẽ chết.

Vị nhân viên hội HTTQT bèn trở vào năn nỉ và thuyết phục tay ”lục thum” kia.”Lục thum” suy nghĩ hồi lâu rồi quyết định cho dân tị nạn đi. Nghe được điều ấy, tôi mừng không thể tả được.”Lục thum” ra lệnh cho tôi về chòi báo cho toán của tôi thu xếp hành lý để lên đường theo chân người nhân viên hội HTTQT.

Tôi vừa về đến chòi thì thấy một đám dân tị nạn Việt mới tới nữa. Đám người này phải ở lại đó đến một tháng sau mới được thả cho đến trại tị nạn. Tôi kêu các người trong đám đó lên năn nỉ xin ”lục thum” Pol Pot cho đi chung với nhóm của tôi.

“Lục thum” nói rằng vì chưa điều tra lấy lời khai của người mới tới nên hắn không cho họ đi chung với nhóm chúng tôi được. Vì qúa sức mừng vui nên chúng tôi vứt lại đồ đạc cho nhóm tị nạn vừa tới. Thế rồi, chúng tôi đi bộ thật lẹ ra chỗ giao thông hào chống chiến xa của quân đội Thái.

Tại đây, có một chiếc xe hơi hiệu Toyota gắn cờ của hội HTTQT đã chờ sẵn. Nhưng lính Thái yêu cầu tôi lập danh sách cho mười bốn người. Xong xuôi, bảy người được leo lên chiếc xe Toyota loại Wagon, có máy lạnh để đi đến trại tị nạn.

Qua đến bên kia thì có một xe cam nhông đợi sẵn. Sau đó, xe Toyota lại quay trở lại chở bảy người còn lại, trong đó có tôi. Sau 5 năm tù khổ sai dưới ách Cộng Sản, lại thêm sau một tháng trời cực khổ dưới ách của lính Pol Pot, nay được ngồi xe hơi, tôi tưởng mình đang lên thiên đường.


Kết luận.

Khi được hội HTTQT đưa nhóm chúng tôi đến trại tị nạn NW 9, tôi bỡ ngỡ vô cùng. Thoạt đầu khi thấy người tị nạn mặc toàn sà rông, tôi lại ngỡ họ là dân Thái Lan. Lúc nhìn thấy nhà cửa, lều chõng lụp xụp thì tôi nản lòng làm sao ấy.

Ngày tôi đến NW 9 là ngày 15 tháng 6, năm 1980. Dịp đó đúng là ngày ban văn nghệ trại NW 9 tổ chức mừng ngày quân lực 19, tháng 6, năm 1980. Tôi còn nhớ, ban đại diện mời họp để tổ chức mừng ngày quân lực.

Khi vào trại NW 9, tôi được cử làm trưởng đội của nhóm hai mươi người cùng nhập trại NW 9 một ngày. Khi ấy, không còn nhà trống nên chúng tôi được đưa vào ở tạm trong khu nhà hớt tóc. Thế rồi đội của tôi phải chia làm hai nhóm ở hai bên trong khu nhà đó.

Về tiêu chuẩn ăn uống thì không có đồ ăn gì cả, còn nước thì cứ một đầu người có bốn lít nước cho một ngày. Khoảng chín ngày sau, tức là ngày hai 24, tháng 6, năm 1980 thì chúng tôi cùng chạy giặc với bà con trại NW 9.

Sau đó, tôi rất được may mắn ở trong danh sách của những người có ưu tiên một vì được vợ chồng, cha mẹ và con cái bảo lãnh. Vì thế, tôi chỉ ở trại NW 9 có vỏn vẹn một tháng rưỡi rồi được qua trại Panatnikhom Holding Center, rồi qua trại Rangsit Transit Center để đi Mỹ. Tôi tới Mỹ quốc khoảng ngày 8, tháng 10, năm 1980.”

Trương Võ

Hồi Ký Tị Nạn Của Ông Nguyễn Văn Thụy Viễn

Posted: by ttnbg in
0

"Tôi lúc ấy đã sợ quá nên cuống quít gật đầu lia lịa, chẳng biết Lục thum là nghĩa gì mà cũng gật đầu. Thế là tôi bị bọn chúng đánh gần chết. Hai thằng thay nhau dùng báng súng đánh rồi đá và đạp tôi. Mình mẩy tôi đau đớn ê ẩm, máu me chảy đầm đìa, ướt đẫm cả áo quần. Sau đó, bọn chúng bắt tôi cởi hết quần áo để chúng lục xét. Lúc ấy, tôi chỉ còn mặc có cái quần xà lỏn mà thôi.  "


Ông Nguyễn Văn Thuỵ Viễn, sinh năm 1951, cựu giáo sư cấp 3, môn Toán tại trường Lê Bảo Tịnh, Sàigòn. Ông Viễn đã vượt biên vào tháng 2, năm 1980. Tới Mỹ năm 1981. Hiện ông là kỹ sư công chánh, cư ngụ tại Whittier, California. Ông đã dành thì giờ cho Kim Hà phỏng vấn vào 12, năm 1984.

Trong quyết tâm đi tìm tự do, ông Viễn đã đi vượt viên bằng đường thủy đến bảy lần nhưng đều bị thất bại. Lần đi vượt biên bằng đường bộ, ông đã thoát chết và sống qua rất nhiều trại tị nạn như Non Chan, Non Makmun, Khoa Y Dang, biên giới Thái và Cambodia. Các trại Sikiew, Panatnikhom Transit Center tại Thái Lan và trại Bataan, thuộc Phi Luật Tân.Khi đến Mỹ, ông Viễn đã định cư tại Detroit,Michigan; rồi đến Missouri; Longview, Washington State trước khi dừng bước tại thủ phủ của người Việt tị nạn, Orange County.

Ông Viễn là em rể của Kim Hà, chồng của Nguyễn Phạm Kiều-Chi. Chi là người em gái của Kim Hà, cô đã ở lại chịu trăm cay ngàn đắng để việc ra đi của Viễn và gia đình Kim Hà được trót lọt. Sau cùng, cô cũng đã đoàn tụ cùng gia đình tại Mỹ và kết hôn với Viễn vào tháng 9, năm 1982.

Thư Viết Của Viễn Từ Khao Y Dang.

Khao Y Dang ngày 30, tháng 10, năm 1980.
Chị Hà mến,
Nhận được thư chị viết cho tôi đề ngày 18 tháng 10, 1980, tôi rất mừng cho gia đình của chị. Chúa đã giúp cho gia đình chị cách riêng. Gia đình chị là một trong số rất ít người đầu tiên đi đường bộ mà nay đã đến được nước thứ ba.
Còn biết bao nhiêu người còn ở trong các trại Sikiew, Khao Y Dang và NW 9 nữa hả chị? Đó là chưa kể đến chuyện gia đình chị với một số người đông như vậy mà đi thoát được để đến trại NW 9. Chắc chị cũng như tôi đều đồng ý có Chúa giúp chúng ta. Mong rằng gia đình chị khi đến được nước Mỹ, hãy sống đạo cho thật nghiêm chỉnh, đừng làm gì lỗi đạo luật của Chúa và của Trời vì đời sau mới đáng kể.
Mong anh chị hãy hy sinh và sống đúng với những giáo điều của Chúa. Làm gương và hướng dẫn những đứa con sau này trở nên những tông đồ trong Chúa. Đừng để những cám dỗ của vật chất văn minh, những yếu đuối của thế gian tầm thường chi phối.
Riêng tôi, trong đời sống ở đây. Từ khi Chúa ban liên tiếp những phép lành cho tôi trên đường vượt biên tới đây, không tối nào là tôi không đọc năm mươi kinh để cảm tạ Chúa, để cầu nguyện cho những người còn lại ở Việt nam. Tôi đã dứt khoát ở hiện tại cũng như trong tương lai, tôi phải là một tông đồ ngoan trong tiếng gọi của Chúa.
Và tôi cũng nói một điều này, tùy chị tin hay không là thời gian gia đình chị còn ở tại trại NW 9, ở ngay biên giới Thái-Miên, không đêm nào là tôi không đọc kinh và cầu nguyện cho gia đình chị ba kinh, mong Chúa giúp cho gia đình chị đi thoát qua cảnh cơ cực lúc ấy, cùng mau chóng được định cư.
Chị Hà mến,
Đọc thư chị viết về thái độ của người ngoại quốc khinh bỉ đám dân tị nạn cơ cực Đông Dương ở trên máy bay, tôi buồn lắm. Mặc dầu tôi biết đó chỉ là một sự thật trong những sự thật tương tự đã xảy ra và đang tiếp diễn.
Biết làm sao hả chị, khi mà chúng ta đã đánh mất quê hương. Rồi đây, tôi, chị và còn rất nhiều người khác nữa sẽ còn phải chịu đựng hơn nữa và hơn nữa.
Cũng như hiện tại, tôi đã phải nhìn, phải chịu đựng biết bao cảnh trái tai gai mắt: từ những cảnh tụi Pol Pot hãm hiếp tập thể các phụ nữ Việt Nam đi vượt biên đường bộ mà chúng nó bắt đuợc. Tôi không bao giờ có thể quên được những tiếng la thét đêm ấy, tại trại Non Samet (007), khi mà tụi nó hãm hiếp một thiếu nữ khoảng hai mươi tuổi, ngay cách đầu chúng tôi độ ba thước. Khoảng mười thằng. Khi xong, chúng còn tống một cái đèn pin vào cửa mình của cô ấy. Tiếng la hét đau đớn ấy, hiện nay nó còn ám ảnh tôi không nguôi.
Rồi đến đời sống tại trại Khao Y Dang ở những ngày tháng đầu tiên, chỉ một lon sữa hoặc nửa ký đường, là một cô gái đàng hoàng sẵn sàng hiến thân ngay. Ngay tổ tôi ở, đã có ba, bốn cô làm như vậy.
Tôi thật ghê tởm công việc làm đó và xót thương cho họ. Đó là chưa kể những cặp vợ chồng vá víu. Chồng chưa xa gia đình dược bao lâu đã quên vợ và ngược lại. Thật tội lỗi không thể tưởng tượng được. Nhiều lúc nhìn những cảnh đó, tôi chán nản cùng cực.
Người Viêt mình như thế, bảo sao người ngoại quốc không khinh sao được? Mặc dầu tôi không dám nói tất cả những người tị nạn đều như vậy cả.
Chị Hà mến,
Hôm nay, tự nhiên tôi muốn tâm sự với chị, biết đâu đây chả là dịp cho chị ôn lại những kỷ niệm tại trại tị nạn mà gia đình chị đã trải qua.
Sống trong trại tị nạn, lúc đầu nhiều khi tôi bị khủng hoảng tưởng muốn điên lên được. Hàng ngày chứng kiến những cảnh trái tai gai mắt đó, cộng với những thiếu thốn tối cần thiết. Đến lúc này nghĩ lại vẫn còn rùng mình.
Khi mà hơn một tháng không đánh răng, ba tháng không có kem đánh răng để đánh. Khi mà suốt ngày chỉ mặc độc nhất một cái quần bộ đội. Tối thì nằm đất mà không có mùng. Khi mà hai ngày đi tắm với một thùng bốn lít nước. Tôi thèm chất ngọt, thuốc lá và đồ gia vị kinh khủng.
Cộng thêm vào đó, tình hình an ninh quá bi đát. Lúc đầu và cho đến giờ này vẫn tiếp diễn: Tụi lính Thái Lan cứ hứng chí lên là tìm cớ vào trại, bắt người này người nọ, mà đa số là thiếu nữ để đi hiếp dâm. Không ai dám hé môi khi mà sinh mạng mình không có cơ chế nào để bảo vệ.
Rồi tụi Pol Pot giả dạng dân, đêm đêm vào trại để cướp của và hiếp dâm. Có đêm báo động đến năm bảy lần. Đạn bắn trúng dân lành. Đến nay ở trại tôi ở là trại Khao Y Dang, số người lạc đạn đã năm người. Rồi lại tin đồn này nọ: trả về biên giới, bộ đội Việt cộng tấn công sang, nay mai được chuyển trại, lâu lâu lại được lá thư buồn của gia đình gửi sang. Trời ơi, tất cả những thứ đó, trong hoàn cảnh xa gia đình, nhớ nhà, nhớ người thân, tủi với những người chung quanh khi họ có tiền.
Thiếu thốn quá nhiều với những đồ cấp phát của HCR để ăn hàng ngày, tôi nhiều lúc muốn đập phá tất cả. Càng sống lâu trong trại tị nạn bao nhiêu, tôi lại càng thương mẹ của tôi quá. Có những cái thật nhỏ, lúc ở Việt nam tôi không để ý. Vậy mà khi đến đây, những cái tôi cho là nhỏ thì nó lại trở thành tối cần thiết, chị ạ.
Tôi đã tâm sự về vấn đề này với chị hơi nhiều. Nói vấn đề này để chị thấy tại sao tôi phải cầu nguyện cho gia đình chị hàng đêm. Thời điểm ấy, tôi rất lo và thương cho chị cùng các cháu lắm. Gần ngày sinh, con đông và quá nhỏ, sống làm sao đây?
Chị biết không? thời điểm ấy, tôi phải xung phong đi vác than cho ban tiếp liệu để mong xin họ thùng giấy rách và bao ni lông gói thịt về để đựng nó, gói bao gửi qua NW 9 cho chị. Và cô Huyền Chi, học trò của tôi, lúc đó đã có một hành động tuyệt vời với tôi là cho tôi mượn năm trăm baht, tức là hai mươi lăm đô la.
Nghĩ lại lúc ấy khổ quá, đi cầu không có giấy, tôi phải lấy lá để chùi. Viết những giòng chữ này, tôi chỉ muốn nói lên, để chị và tôi, chúng ta cùng ôn lại, cùng thương yêu và cùng đùm bọc nhau ở tương lai. Cùng cảm ơn Chúa đã thương yêu chúng ta, đưa chúng ta đến đây và đã ban cho chúng tôi đủ nghị lực thoát qua những cảnh khổ đó. Điều đáng nói nhất là chúng ta đã không làm gì cho Chúa buồn trong thời gian vừa qua.
Cầu xin ơn trên ban mọi ơn lành đến gia đình anh chị.
Thân Mến,
Nguyễn văn Thụy Viễn

 

Cuộc Hành Trình Từ Việt Nam Đến Thái Lan



“Liên tiếp thất bại bảy lần bằng đi vượt biên đường thủy, nên tôi chọn đi bằng đường bộ. Như sóng cồn, phong trào đường bộ lúc ấy đang thịnh hành, nhiều người bàn tán, đi qua lại buôn bán; lại thêm nhiều công nhân viên nhà nước qua lại làm việc ở Cambodia. Vì thế, tôi nghĩ việc xâm nhập biên giới cũng đỡ phần nguy hiểm. Tôi bèn đánh bạo để thử thời vận, may ra có thể thành công.

Tôi không nhớ đã ra đi ngày nào theo Tây lịch, có lẽ 27 tháng 2, năm 1980, nhưng nhớ rõ lúc ấy là ngày mùng tám Tết, năm Canh Thân (1980). Sau khi đã tìm hiểu đường dây vượt biên, chúng tôi, Nhật và tôi, cùng với người dẫn đường dự định từ Sàigòn sẽ ra bến xe Lục tỉnh đi thẳng xuống tỉnh Châu Đốc.

Tuy nhiên, vì sự di chuyển khó khăn và vì sợ lộ, chúng tôi phải đi hai chặng xe. Từ Sàigòn đến Cần Thơ ở lại một đêm rồi hôm sau mới từ Cần Thơ đi Châu Đốc. Số người đi gồm anh Nhật là học trò của tôi, tôi và người dẫn đường.

Khi tới Châu Đốc, người dẫn đường tên Dũng đưa chúng tôi tới nhà người quen để ngủ đỡ rồi chờ đến đêm sẽ qua biên giới để đến tỉnh Tà Keo của địa giới Cambodia. Khoảng 3:00 giờ đêm, tên Dũng đưa hai chúng tôi vượt sông và đi bộ khoảng hai dặm dưới bóng đêm. Chúng tôi lầm lũi băng qua các cánh đồng để tìm đến tỉnh Tà Keo.

Tới nơi, chúng tôi phải nằm ở nhà người quen của tên Dũng hai ngày để hắn có thể móc nối xe đò đi Nam Vang. Trước khi lên xe đò, chúng tôi phải ăn mặc giả làm dân buôn: áo sơ mi rằn, quần đen, khăn choàng cà ma, một loại khăn thông dụng của người dân Miên.

Từ Tà Keo đi xe đến Nam Vang mất khoảng hai hay ba tiếng đồng hồ. Khi đến Nam Vang, anh chàng Dũng đòi chúng tôi đưa thêm tiền. Như đã quy định, mỗi đầu người chúng tôi sẽ trả bốn cây vàng. Từ Sàigòn đến Nam Vang, mỗi người sẽ giao một cây vàng cho người dẫn đường. Từ Nam Vang đến Sisophon, sẽ giao thêm một cây nữa.

Khi chúng tôi thành công, chúng tôi sẽ giao tín hiệu về Sàigòn thì lúc ấy, người nhà chúng tôi sẽ giao thêm hai cây cuối cùng. Như vậy mới chắc ăn. Thế mà nay hắn đã đòi chúng tôi giao hết. Vì thế, chúng tôi nhất định không chịu giao.

Trên đường đi từ Châu Đốc đến Nam Vang, tôi quan sát thấy Dũng không rành đường đi từ Nam Vang đến biên giới; vì thế chúng tôi sợ nên không giao hết. Thế là hắn bỏ rơi chúng tôi ngay tại chỗ và trốn đi.

Lúc ấy tâm trạng chúng tôi rất hoang mang: Nếu về thì không biết đường về, mà nếu đi lại không biết lối đi. Cũng may, lúc ấy ở Nam Vang có rất đông công nhân viên và dân buôn người Việt. Họ xài tiền Việt nam luôn, chỉ có nơi hẻo lánh mới dùng vàng để trao đổi và buôn bán.

Chúng tôi bèn đánh bạo ở lại đó hai ngày để đi vòng quanh, tìm hiểu và móc nối đường dây để mà đi tiếp. Nếu không móc nối được thì sẽ đi về lại Sàigòn, còn nếu tìm được đường khác thì sẽ đi tiếp.

Sau hai ngày, tôi có một nhận xét là có một số người dù đã cải trang vẫn có thể biết là họ đi vượt biên. Chỉ cần nhìn đôi mắt và dáng điệu lấm lét là biết ngay. Vì thế tôi đã đi theo họ để kiếm lối đi tiếp. Tôi để ý là hễ ăn xong thì cả bọn đều ra bờ sông Nam Vang, kế một cái chợ lớn và kế một bến xe vận tải để ngủ. Thế là hai chúng tôi cũng đi theo ngủ ké theo họ ở ngay các vỉa hè.

Sáng hôm sau, khoảng 3:00 giờ sáng, họ ơi ới gọi nhau cùng lên xe. Chúng tôi thấy họ leo lên xe thì cũng leo lên xe ngồi. Các tài xế và lơ xe của đoàn xe vận tải thì đã có sự toa rập với người vượt biên để đưa họ đi trốn và lấy tiền thù lao.

Khi xe đi từ Nam Vang ra ngoại ô độ mười cây số thì ngừng lại đến hai ngày và không đi tiếp nữa. Tôi đoán có lẽ đoạn đường phía trước đang có giao tranh nên họ sợ nguy hiểm. Lúc này mọi người đều đi xuống ăn uống và nghỉ ngơi.

Trong lúc đó, tôi bèn đi vòng các làng ven đường để quan sát sự sinh hoạt của người dân Cambodia. Họ bị lệ thuộc rất nhiều ở chính quyền Việt Nam. Người bộ đội Việt Nam rất có uy quyền, giống y như sự đô hộ của quân đội Pháp đối với nước Việt Nam ngày trước.

Trong hai ngày chờ đợi đó, người lơ xe liên lạc với chúng tôi để đòi tiền chuyên chở. Họ bảo là sẽ đưa chúng tôi đến một tỉnh giáp vùng Sisophon là tỉnh Battambang với giá sáu chỉ vàng cho một đầu người.

Chúng tôi lúc ấy không biết khoảng cách từ Battambang đến Sisophon là bao xa, nhưng chỉ biết càng đến gần biên giới là hy vọng càng cao. Vì thế, chúng tôi đánh liều đi đại. Sau khi năn nỉ, giá họ chịu lấy là bốn chỉ cho một đầu người.

Trong cuộc hành trình, khi đến các trạm không nguy hiểm thì chúng tôi vẫn ngồi yên trên xe. Xe chứa khoảng từ hai mươi đến ba mươi người. Những người vượt biên thì ngồi ở bên trong, còn dân địa phương buôn bán thì ngồi ở ngoài. Tới các trạm có lính Cambodia kiểm soát thì người lơ xe trao đổi tiền bạc và hàng hoá. Điều này cho thấy là họ cũng làm ăn chia chác với nhau cả.

Khi tới các trại có bộ đội Việt Nam canh gác thì người lơ xe không dám để người vượt biên ngồi trên xe. Họ dặn chúng tôi hãy xuống đi bộ hình chữ nhật, tức là đi vòng trong đường ruộng để tránh các trạm kiểm soát. Người tài xế xe vận tải ngừng xe cho chúng tôi xuống cách trạm cỡ một dặm và quá trạm một dặm để đón chúng tôi lên xe đi tiếp. Họ rất tử tế vì họ có thể bỏ rơi chúng tôi bất cứ lúc nào nhưng họ đã không bỏ rơi. Có khi họ phải đợi chúng tôi từ nửa tiếng đến một tiếng đồng hồ.

Tôi không biết đoạn đường từ Nam Vang đến Battambang dài bao nhiêu cây số, nhưng chỉ biết có khoảng một trăm trạm kiểm soát trên lộ trình ấy, vì cỡ một trăm thước là có một trạm kiểm soát. Từ Nam Vang đi Battambang phải mất ba ngày đường. Số lính người Miên kiểm soát ở các trại lại ít hơn số lính bộ đội người Việt.

Đường lộ rất xấu và hư hại rất nhiều. Có nhiều đoạn đường hầu như không có nhựa. Bụi đỏ bay mù mịt, xe cứ nhảy nhổm như muốn hất người ngồi rớt xuống đất.

Trên chuyến xe đó, rất hên là tôi gặp một bà người Miên gốc Việt Nam. Chồng bà là giáo viên người Miên. Bà ta hình như biết chúng tôi là dân vượt biên nên mở lời trước. Cứ đến mỗi trạm, thì xe ngừng để mọi người mua nước uống và đồ ăn. Chúng tôi không dám xuống vì sợ lộ, nên chỉ ngồi trên xe ăn bánh mì cầm hơi.

Thấy vậy, bà này cứ săn đón và mời chúng tôi mua đồ ăn rồi lần mò hỏi chuyện. Bà ta hỏi có phải chúng tôi là dân Việt Nam không, có phải chúng tôi có ý định vượt biên không, rồi bà hỏi đủ chi tiết về chúng tôi. Khi tiếp xúc, tôi nhận xét rằng bà này muốn giúp đỡ chứ không phải soi mói. Bà ta còn mời chúng tôi uống nước dừa Thốt Nốt. Đây là loại nước phổ thông nhất ở Cambodia, nước đựng ở trong một đốt tre. Thế là hai đứa chúng tôi có một đốt tre nước Thốt Nốt, rồi ăn bánh tét và bánh bò trắng.

Sau khi ăn và nghỉ ngơi, chúng tôi lại tiếp tục lên xe đi. Tôi có thú thật với ba ta về ý định vượt biên của chúng tôi. Tôi tả cảnh bị bỏ rơi và bị lừa. Nghe xong, bà ta tỏ ý thương hại và hứa sẽ đưa chúng tôi về nhà để bà kiếm đường giúp đỡ cho.

Sau khi xe ngừng tại bến xe ở Battambang. Chúng tôi theo bà này về nhà bà. Nhà bà ở cách bến xe độ hai cây số. Lúc ấy, vì tỉnh Battambang tương đối sôi động và đầy không khí chiến tranh nên bà không cho chúng tôi ra đường. Vì thế, chúng tôi chỉ quanh quẩn ở lại nhà bà. Bà ta lo cho chúng tôi ăn uống rất chu đáo.

Chồng bà ta cũng vui vẻ, mỗi khi ông ta hỏi thăm xã giao thì bà ta lại thông dịch lại. Bà ta hứa thêm là sẽ liên lạc với người em chồng để hắn ta dẫn chúng tôi vượt biên giới.

Thế là chúng tôi đành nằm chờ tại đó đến ba ngày vì người em chồng của bà chủ nhà đi buôn bán ở Nam Vang chưa về. Khi anh này về lại nhà, anh ta hỏi xem chúng tôi còn bao nhiêu tiền. Chúng tôi góp lại còn một lượng và một chỉ vàng.

Anh ta bèn giải thích là phải mua ít nhất là hai xe đạp cho hai chúng tôi để đạp xe đi tiếp. Nếu đi từng người thì không bị lộ, nhưng nếu chở đôi trên chiếc xe đạp thì rất dễ bị lộ. Mà với một lượng và một chỉ thì không đủ mua hai xe đạp. Nếu không đủ thì nên đi bộ. Chúng tôi bối rối nên đành chờ anh này quyết định thôi. Cuối cùng, anh ta đề nghị rằng anh và bạn anh sẽ dùng xe đạp chở hai chúng tôi đến tỉnh Sisophon rồi sau đó sẽ đi bộ qua biên giới.

Sáng sớm hôm sau, khoảng 4:00 giờ sáng, anh này chở tôi trên một xe đạp. Người bạn anh thì chở Nhật, cậu học trò của tôi, trên một chiếc xe đạp khác. Chúng tôi đi từ Battambang từ lúc bốn giờ sáng thì đến tỉnh Sisophon lúc 2:00 giờ trưa. Đoạn đường này tương đối an toàn cho chúng tôi.

Tại tỉnh Sisophon, chúng tôi mua đồ ăn và nước uống . Anh dẫn đường căn dặn rằng đêm nay, khi vượt biên giới sẽ rất gian khổ, vì thế phải ăn uống đầy đủ để chuẩn bị đi. Đoạn đường đi bộ sẽ dài khoảng ba mươi cây số. Khi tới trại sẽ có hội HTTQT cứu giúp. Anh còn cho biết rằng họ sẽ chở chúng tôi đi khoảng mười cây số nữa thì sẽ đi qua bờ đê vào biên giới Cambodia và Thái Lan. Cách bìa rừng biên giới, sẽ có một trạm kiểm soát. Đây cũng là trạm quyết định vì đã có nhiều người vượt biên bị bắt tại trạm đó.

Khoảng 4:00 giờ chiều hôm ấy, trời đã trở lành lạnh, chúng tôi lại ra đi. Thường thường thì người dẫn đường chở tôi đi trước. Nhưng hôm ấy không hiểu sao, bạn anh ta lại chở Nhật đi xe đạp lên trước, còn chúng tôi đi ở phía sau cách khoảng hai trăm thước.

Khi tới trại kiểm soát, nhóm lính bộ đội Việt Nam chạy ra đường chặn xe đạp chở Nhật lại. Chúng tôi vội ngừng ngay lại ở đàng xa và không dám đi tiếp nữa. Vì ở khá xa nên tôi không biết họ đã đối đáp ra sao. Chỉ thấy họ dùng báng súng đập lên người Nhật, rồi đá Nhật té lên té xuống, rớt xuống mặt đường. Họ trói và còng Nhật. Tôi không rõ có phải trói không nhưng tay Nhật bị bẻ quặt ra đàng sau và động tác trói đó rất lâu, có đến mười phút.

(Anh Nhật bị bắt giam ở Nam Vang nửa tháng, rồi bị đưa về nhốt ở trại giam Chí Hòa ở Sàigòn trên một năm. Cuối cùng anh ta lại trốn đi bằng đường biển và thành công. Hiện anh ta đang ở Texas, USA. Tuy nhiên, gia đình Nhật đã nhắn tin chửi tôi rất nhiều, vì nghĩ rằng tôi âm mưu hại Nhật bị bắt. Sau này, khi họ tỉnh ngộ, họ đã tìm đến xin lỗi tôi ở Mỹ.)

Sau đó, người dẫn đường đã bỏ xe đạp ở bên đường, rồi anh ta dẫn tôi vào một bụi rậm và dặn dò tôi ở lại đó, nhớ đừng đi ra. Anh ta sẽ quan sát đường để xem có nên đi tiếp không hay phải ngưng lại. Thế là anh ta băng đường đi sâu vào ruộng. Một lúc sau, không còn thấy bóng dáng anh ta đâu nữa.

Tôi ngồi chờ trong sự hồi hộp và nóng ruột. Mãi đến hai tiếng đồng hồ sau, anh ta trở về bụi rậm tìm tôi và dẫn tôi đi tiếp. Lúc ấy khoảng sáu giờ chiều, anh ta đi trước và dẫn xe đạp, còn tôi thì lò dò theo sau.

Chúng tôi đi sâu vào bìa rừng. Cỡ khoảng một lúc lâu, cách bìa rừng độ một trăm thước, tôi thấy nhiều đám cháy sáng rực, người dẫn đường bảo tôi ngồi cạnh đám lửa để lấy than đen bôi lên mặt mũi và tay chân tôi vì da tôi trắng quá, trông không giống người bản xứ.

Khi chúng tôi khởi sự đi tiếp thì trời đã tối mịt. Tôi không còn định được phương hướng nữa. Chúng tôi đi khoảng ba hay bốn tiếng trong rừng. Sau cùng vì quá kiệt sức, hai chúng tôi nằm đại dưới đất và ngủ giữa rừng.

Lúc ấy, vì mệt nên tôi ngủ rất ngon. Khi tôi tỉnh dậy thì mặt trời chói chang, ánh sáng gay gắt. Khi đó cũng khoảng 9:00 giờ hay 10:00 giờ sáng. Người dẫn đường bèn mở cơm và cá khô cho tôi ăn, rồi anh ta đem bình nước cho tôi uống. Ăn uống xong, anh ta lại bọc hết đồ ăn lại, đeo lên vai và chúng tôi tiếp tục đi nữa. Chúng tôi vượt các trạm kiểm soát, lên lại lề đường cái, rồi lại dùng đường ruộng, rồi lại lên lề đường. Dần dần, chúng tôi đến một chợ biên giới. Tại đây, người ta đi lại buôn bán rất nhiều. Ra khỏi chợ độ ba cây số, chúng tôi đến lại một bờ đê, rồi lại ra khỏi bờ đê để đến một vùng trái độn.

Nơi này rất nguy hiểm vì gồm có đủ lực lượng quân sự như Cộng sản Việt Nam, Thái Lan, Para Miên, Pol Pot... Anh dẫn đường bập bẹ nói tiếng Việt Nam cho tôi biết sự nguy hiểm của vùng đất này. Qua ngôn ngữ và sự diễn tả của anh, tôi được biết rằng vùng này thuộc quyền kiểm soát của lực lượng Khmer Đỏ, tức là Pol Pot. Họ có thể chém đầu người tị nạn Việt Nam bất cứ lúc nào.

Khi nghe xong, tôi mất bình tĩnh ngay vì biết rằng tính mạng mình có thể mất một cách dễ dàng. Tinh thần tôi căng thẳng. Cũng vì sợ hãi quá mà sau này tôi mới hối hận.Khi ấy, tôi thấy một con đường moon. Ở hai bên có những lực lượng Pol Pot dọc đường. Họ mặc đồng phục màu đen hay màu xanh da trời, đầu đội nón lá rộng vành. Người dẫn đường của tôi đi trước qua những trạm gác của Pol Pot khoảng độ vài trăm mét. Khi nhắm tình hình bất an thì anh ta về lại và cho biết tình hình không ổn, phải đi bọc vòng.

Chúng tôi đi bọc vòng qua được ba trạm. Người dẫn đường đạp xe đi trước, rồi đợi tôi vượt qua trạm gác để chở x echo tôi đi tiếp. Khi đến trạm kiểm soát thứ tư thì hắn ta đi trước, còn tôi đi vòng nhưng mắt vẫn hướng về con đường mòn để nhớ vị trí trạm gác.

Trong khu rừng rậm rạp, khi tôi đi xa khỏi đường mòn thì thấy bọn lính Pol Pot chạy về phía trước để chận đầu tôi và ngăn đường chạy ra của tôi. Thấy nguy hiểm, tôi vội vàng chạy ngược lại về hướng cũ. Thế là bọn chúng xả súng bắn liên tiếp.

Lúc ấy, tôi hoàn toàn mất bình tĩnh, tôi càng chạy thì chúng càng bắn. Hình như có ba đứa bắn liên hồi. Tôi cố chạy để tránh tầm đạn bằng cách chạy từ gốc cây này qua gốc cây khác. Có những lúc hình như tôi bị hoa mắt nên thấy các lằn đạn nổ tóe lửa trước đám cây trước mặt. Cứ như thế, tôi chạy cho đến khi không còn nghe tiếng súng nữa. Cuối cùng tôi lạc mất phương hướng. Khi tôi càng tìm lối ra thì càng lạc sâu vào rừng rậm khác.

Thế là tôi đành lang thang cả đêm trong rừng. Lúc ấy tôi mới định thần nhìn lại thì tất cả bình nước, cơm khô, cá khô, nón, khăn cà ma để hóa trang đều đã rớt hết sạch sành sanh. Trong người tôi chỉ còn sót một bộ đồ và đôi dép Bình Trị Thiên. Sau cùng vì quá mệt và đuối sức, tôi đánh một giấc ngủ dài để giải quyết sự mệt mỏi.

Hình như tôi đã ngủ trên mười hai tiếng đồng hồ. Khi tỉnh dậy, tôi lại đi lòng vòng nhưng không tìm được lối ra. Tôi lại lạc trong rừng thêm một ngày nữa mà vẫn không tìm thấy lối đường mòn để đi ra. Cơn khát nóng bỏng cổ, tôi tưởng mình có thể chết được.

Đêm hôm sau, tôi lại ngủ trong rừng. Cái khát càng gia tăng cao độ. Tôi bèn lượm các chiếc lá mục nát rớt xuống đất đã lâu nên mục và ướt rồi nắm đám lá cây vắt chặt để kê vào miệng cho hơi nóng trong miệng bốc hơi, mong cho cơn khát dịu xuống để chận sự nóng bỏng cổ.

Trong lúc lang thang trong rừng, tôi cố moi óc để nhớ lại cách đây hai ngày, người dẫn đường chỉ mặt trời rồi ra dấu là khi mặt trời lặn thì mình sẽ tới bìa rừng. Từ đó, tôi cứ canh hướng mặt trời lặn để tìm lối ra con đường mòn. Tôi leo lên cây cỡ mười thước để tìm xem hướng mặt trời buổi sáng mọc ở đâu thì các cành cây phía sau hướng mặt trời sẽ có rêu xanh nhiều.

Sau khi quan sát, tôi quyết định đi theo hướng mặt trời lặn. Rốt cuộc tôi lần mò tìm được đường mòn vào lúc gần tối. Tôi suy nghĩ có lẽ mình mà đi ra đường vào buổi tối thì nguy hiểm vì có thể bị bọn cướp giết. Còn nếu đi ban ngày thì dân buôn đi lại nhiều nên đỡ nguy hiểm hơn. Suy đi tính lại rồi, tôi không dám ra vì trời quá tối. Thế là tôi lại ngủ.

Sáng hôm sau, tôi leo lên cây để quan sát phía đường mòn. Từng đoàn xe đạp đi lui tới tấp nập. Tôi đã quá chán nản nên bỏ ý định đi Thái Lan rồi. Vì thế tôi bắt đầu đi ra đường mòn để trở về Việt Nam. Vì muốn trở về nhà nên tôi không thèm trốn tránh bọn lính Pol Pot nữa. Lạ một điều là bọn nó chỉ ngó tôi chứ không hỏi han hay chận bắt tôi nữa. Tôi biết chắc là bọn chúng biết tôi là người Việt Nam vì lúc ấy đồ hoá trang trên người tôi đã rớt mất cả rồi.

Khi tôi đi ngược về phía bìa rừng thì thấy một đoàn xe bò đi ngược đường với tôi. Lúc ấy vì qúa khát nên tôi mất hết lòng tự trọng, tôi bèn chắp tay vái lạy bọn họ rồi ra dấu xin nước uống. Đoàn xe bò đầu tiên không cho tôi nước mà cứ lấm lét nhìn tôi. Sau này tôi mới hiểu lý do là vì họ đang chứa người vượt biên trên xe bò nên họ sợ. Những xe tiếp cũng tỉnh bơ, không cho tôi nước uống.

Sau cùng chỉ có xe cuối ngừng lại. Tôi lại lạy xin nước và ra dấu chỉ cái nhẫn vàng rằng tôi sẽ đưa cho họ nếu họ cho tôi nước uống. Người đi xe bò bèn cho tôi nước uống. Khi uống xong, tôi đưa vàng cho họ nhưng họ không lấy. Thấy họ quá tử tế, tôi sợ đường còn xa nên xin luôn cái bình nước. Anh này vẫn cho tôi cái bình mà không lấy một chút vàng nào của tôi.

Tôi cám ơn và lầm lũi đi. Hơn một tiếng đồng hồ sau, tôi lại gặp bờ đê. Nơi đây, tôi thấy có một nhóm người bán nước Thốt Nốt và bánh trái. Tôi bèn bỏ vàng ra mua đồ ăn và nước uống. Ăn uống xong, tôi tới bờ đê và ngủ thêm một giấc.

Trong giấc ngủ, tôi cảm thấy có một bàn tay đang lay tôi dậy. Khi định thần tỉnh giấc, tôi thấy rõ ràng là người dẫn đường đã lạc tôi từ năm hôm trước, nay anh ta đang ở trước mặt tôi để đánh thức tôi dậy. Tội nghiệp! anh đã đi tìm tôi khắp nơi nay mới gặp lại. Gặp được anh, tôi mừng qúa, tay bắt mặt mừng.

Sau đó, anh ta lại bắt tôi ngồi sau xe đạp và anh ta đạp tiếp. Anh ta an ủi tôi rằng nếu thoát ách bọn lính Pol Pot thì sẽ thoát luôn, còn qua bọn lính Para thì không sao vì anh ta là người làm kinh tài cho Para.

Lúc này, anh ta đạp xe chở tôi vượt các trạm kiểm soát của Pol Pot. Đến khi tới vùng kiểm soát của Para thì anh ta bảo tôi ngồi đợi ở góc bìa rừng để anh ta liên lạc với Para. Trước khi đi, anh ta không quên bảo tôi giao hết vàng để anh đưa cho Para. Nếu có vàng, bọn Para sẽ đối đãi tốt hơn. Thế là còn bao nhiêu, tôi bèn đưa hết cho anh ta đem đi.

Sau đó, không biết tại sao, tôi nghe có nhiều tiếng súng. Có lẽ lại đụng trận giao tranh giữa các phe phái. Lúc ấy, tôi đang ngồi ở bên lề của đường mòn, tôi sợ quá nên lại chạy sâu vào rừng để tránh sự di chuyển của đoàn quân. Khi chạy sâu độ ba trăm mét, tôi lại nghe từng loạt súng ở phía sau bắn tới. Tôi lại chạy ngược hướng đó. Chạy lòng vòng một quãng thì tôi bị bọn lính Para bắt giữ. Bọn chúng nghi ngờ tôi là Việt Cộng nên tra hỏi đủ thứ. Lúc đầu tôi lầm tưởng họ là lực lượng Thái Lan nhưng sau mới biết họ là lực lượng Para của Sihanouk.

Xui cho tôi là khi ấy, tôi mặc đồ của sinh viên học đường có cầu vai, vì thế, bọn họ tưởng tôi là ông lớn Cộng sản nên hỏi tía lia:” Lục thum? Lục thum?”.

Tôi lúc ấy đã sợ quá nên cuống quít gật đầu lia lịa, chẳng biết Lục thum là nghĩa gì mà cũng gật đầu. Thế là tôi bị bọn chúng đánh gần chết. Hai thằng thay nhau dùng báng súng đánh rồi đá và đạp tôi. Mình mẩy tôi đau đớn ê ẩm, máu me chảy đầm đìa, ướt đẫm cả áo quần. Sau đó, bọn chúng bắt tôi cởi hết quần áo để chúng lục xét. Lúc ấy, tôi chỉ còn mặc có cái quần xà lỏn mà thôi.

Cuối cùng, chúng bắt tôi cởi hết quần lót để chúng xét trong hậu môn tôi xem còn vàng hay không. Sau khi xét kỹ lưỡng, bọn chúng trói gộp tôi lại rồi chuyển tôi về doanh trại của chúng để giải quyết.

Bị Bắt Vào Đồn Para, Tại Biên Giới Thái-Miên


Tại trại của Para, bọn chúng hỏi tôi bằng tiếng Anh và tiếng Pháp. Lúc ấy, vốn liếng tiếng Anh của tôi quá kém. Tôi bèn cố gắng giải thích cho chúng rõ là tôi vốn là giáo sư Toán, vì không thích chế độ Cộng sản nên tôi muốn trốn đi Mỹ. Đến đây, tôi móc đồ ra lấy một giấy bảo lãnh của mẹ vợ tôi gửi từ Mỹ về, rồi tôi lấy giấy chứng nhận giáo sư có hình để chứng minh cho chúng biết rằng tôi không nói láo.
Khi xem xong giấy tờ chứng minh lý lịch của tôi, Para thay đổi hẳn thái độ và cách đối xử. Chúng trở nên tử tế và tốt hơn. Chúng hỏi tôi nếu dạy môn toán thì hãy vẽ một đường biểu diễn. Thế rồi một tên sĩ quan mang súng ngắn bảo một tên lính đi theo có mang máy truyền tin đưa giấy tờ cho tôi vẽ đường biểu diễn.
Tôi còn nhớ chúng bắt tôi giải một phương trình hữu tỳ. Lúc tôi vẽ xong, bọn chúng nhìn ngắm rồi tỏ ý tin tưởng tôi hơn truớc. Sau này tôi mới biết là bọn chúng là Para, còn tên sĩ quan kia là chỉ huy lớn nhất của vùng biên giới.
Vì tin tưởng rồi nên chúng kêu lính đem cơm và một hộp cá sốt cà chua ra cho tôi ăn. Đến 5 năm rồi, tôi mới lại được ăn món cá hộp này. Họ còn cho tôi một chai nước ngọt màu xanh loại lớn cỡ một lít. Tôi mừng quá, chỉ dám uống chút ít, còn lại để dành cho những ngày tới. Đây là bữa cơm qúy nhất và thịnh soạn nhất từ ngày tôi đi vượt biên.
Sau khi hoàn tất thủ tục, tên chỉ huy bảo một tên lính chở tôi đi sâu vào doanh trại bộ chỉ huy vì ở ngoài này nguy hiểm hơn. Tên lính đạp xe đưa tôi đi. Độ hai tiếng sau thì đến một trại rất lớn. Trại này có chợ, có nhà và lều xanh rải rác khắp nơi.
Khuôn viên trại rộng vô cùng, quanh vòng rào có các bồn nước bằng thiếc, có hàng rào ngăn nắp. Cuối cùng, tên lính dừng lại ở một căn nhà có một giếng sâu để cho tôi được tắm rửa. Tôi múc nước lên bằng thùng dầu bốn lít để tắm. Cả chục ngày chưa tắm nên lúc này, tôi rất mừng khi được tắm rửa mát mẻ và sạch sẽ.
Đang tắm, tôi nhìn ra đường thì thấy một xe Toyota có vẽ bảng hiệu Thập tự nhỏ. Tôi biết ngay là xe của hội HTTQT. Trên xe có người Âu Mỹ ngồi. Xe đi qua nhanh quá nên tôi không thể chạy theo. Tôi bèn nuôi hy vọng vì biết là xe hội HTTQT sẽ chạy qua đây nhiều lần.
Tắm xong, tôi bèn ngồi đợi cho quần áo khô và cũng để ngóng xe hội HTTQT. Khoảng bốn, năm giờ sau, tôi để ý và thấy xe hội trở lại đến vì bụi bay mù mịt. Khi thấy xe chạy xa cỡ năm trăm thước, tôi bèn chạy hối hả ra đường để chận đầu xe của hội lại. Xe ngừng trước mặt tôi độ một trăm thước rồi hai mươi thước, một người đàn ông người Pháp nhảy xuống xe, còn một người đàn bà Thụy Sĩ, bà Denyse Betchov ngồi trên xe.
Tôi bèn chạy tới gần họ rồi bập bẹ nói. Họ không hiểu tôi muốn nói gì. Vì thế, tôi bèn lôi hết giấy tờ bảo lãnh và giấy học tập của giáo sư ra để chỉ tên và hình của tôi cho họ xem. Cả hai vừa xem vừa gật gù rồi cho tôi lên xe chạy.
Lúc ấy, thằng lính Para đã chở tôi đi tắm, vừa chạy ra và đứng nhìn một cách tức tối. Hắn có thể bắn tôi nhưng hắn không dám. Tôi biết là Para có lẽ không giết tôi nhưng tôi vẫn cảm thấy không an toàn ở lại với họ. Còn tên lính Para hình như còn được lệnh để chở tôi đi đâu đó, nhưng tôi bỏ chạy theo hội. Vì thế, hắn nhìn theo xe có vẻ rất bực tức.

Trại Tị Nạn Non Chan

Xe của Hội đưa tôi đi lòng vòng, sau cùng họ đưa tôi đến một khu bệnh viện. Ở đây tôi phải khai lý lịch. Bà Denyse hứa với tôi là sẽ đến vào hai ngày sau để “bốc”chúng tôi đi. Thế là tôi phải ở lại khu nhà lá ở Non Chan. Tại đây đã có sẵn một số người tị nạn gồm một cựu Thiếu Tá Việt Nam Cộng Hòa, hai đại úy và một người đàn bà có hai con, và hai cô thiếu nữ.
Chúng tôi chen chúc ở trong dãy nhà có mái tranh và nằm ngủ ngay ở sàn đất. Lúc ấy, trong bọn có một tên làm ”ăng ten” cho bọn lính Para. Hắn biết tiếng Việt, có thể nói và hiểu tiếng Việt. Hắn nằm tại đây để quan sát xem ai còn vàng hay không để rồi báo cáo cho Para. Những người đi trước đều biết dã tâm của hắn, nhưng không dám báo động cho những người đi sau.
Khi tôi vừa nhập trại, hắn cũng mon men tới hỏi han và dò xét. Tôi bèn tả oán là hết tiền. Mà thật sự, tôi cũng đã trắng tay rồi. Tuy vậy ban chỉ huy của Para cũng kêu tôi lên để xét lại một lần nữa. Hai ngày sau, có một tốp người Tàu ở Việt nam đến. Họ ba hoa khoe là không mất tiền. Ngay chiều hôm đó, họ bị kêu lên xét và cướp hết tiền. Họ buồn rầu và hối hận vì đã lỡ dại khoe khoang.
Bà Denyse hứa đón chúng tôi sau hai ngày, nhưng mãi đến bốn ngày sau, bà ta mới đến đón. Bà ta cho biết đây là lần đón người tị nạn cuối cùng vì sau đó, biên giới sẽ đóng cửa, không chấp nhận người tị nạn đường bộ từ Việt Nam đến nữa. Ngày đóng cửa sẽ là 25, tháng 3, năm 1980.
Sau ngày này, trại Sikiew sẽ không nhận người tị nan, mà cả trại Khao Y Dang cũng không nhận người tị nạn nữa. Sau đó, bà Denyse gửi chúng tôi ở trại Non Makmun, gần biên giới Thái. Nơi này do lính Thái đóng giữ.

Trại Tị Nạn Non Makmun

Cuộc sống của người tị nạn tại đây là cuộc sống của chủ nhân và đám nô lệ. Đồn lính được rào bằng kẽm gai. Họ không cho dân xâm nhập đồn lính. Họ cho dân ở vòng ngoài rồi rào kẽm gai lần nữa. Nếu có bị Cộng sản tấn công thì lũ người tị nạn ở vòng ngoài sẽ chết trước.
Lúc ấy có khoảng một trăm người tị nạn Việt ở trong đó. Mọi người phải ăn ở, tiêu tiểu tại chỗ, chỉ trong vòng rào giam mà thôi, không được đi ra ngoài.
Sau một tuần chúng tôi ở đó thì vấn đề vệ sinh trở nên trầm trọng vô cùng. Mùi hôi thối bay khủng khiếp, ruồi nhặng sinh sản mau lẹ vô cùng. Mỗi ngày chỉ có hai lần là chúng tôi được qua khu trại Thái Lan để múc nước từ giếng bơm tắm rửa và giặt giũ.
Lính Thái rất giới hạn về giờ giấc lấy nước, chỉ từ 9:00 giờ sáng đến 11:00 giờ sáng và từ 3:00 giờ đến 5:00 giờ chiều. Mỗi lần qua tắm chỉ được một người thôi. Như vậy cho dù một người tắm có mười lăm phút, thì cũng chỉ giải quyết bốn người trong một giờ, bốn giờ chỉ có mười sáu người. Thế là chỉ có một số ít được tắm.
Không thể kéo dài tình trạng đó, bà con tị nạn bèn bàn nhau là để cho các thanh niên nhịn tắm, và nên dành cho đàn bà con nít tắm rửa mà thôi. Vấn đề này cũng bất ổn nên sau đó, các thanh niên lực lưỡng sang trại lính Thái Lan xách nước đem về rồi phân phối cho các tổ xài. Sau này khi sống qua nhiều trại như Khao Y Dang, Sikiew và Bataan, tôi mới thấy là ở trại Non Makmun có chế độ ăn uống sướng nhất. Mỗi ngày cứ hai người là có một hộp cá Tuna tròn cỡ 8 ounces. Còn gạo thì nấu ăn tự do.
Tóm lại, từ khi rời Việt Nam đến khi đến trại Non Makmun là mười bốn ngày. Ở Non Chan có ba ngày, ở Non Makmun mười ngày, rồi tôi được chuyển giao qua trại Khao Y Dang ở nội địa Thái Lan.

Trại Tị Nạn Khao Y Dang

Trại này nằm gần chân núi Khao Y Dang. Đây là trại định cư lớn nhất vùng Đông nam Á. Trại này vốn không phải dành cho dân tị nạn Việt mà là trại tạm cư của dân Cambodia. Họ ở tạm nơi đây để chờ các vị lãnh đạo cũ của Cambodia như Sihanouk, Sonn San... về để giải phóng đất nước khỏi tay Cộng sản Việt và Miên và đưa dân chúng về quê cũ. Trại này đặt dưới quyền kiểm soát của bộ Nội Vụ Thái Lan và Cao Ủy tị nạn Liên hiệp Quốc (UNHCR).
Dân số của trại này gồm 123 ngàn người. Đại đa số là người Miên. Tất cả có hai mươi ba khu (sections). Mỗi khu chứa năm ngàn người. Sở dĩ sau này họ phải chứa thêm người Việt nam vì trại Sikiew đóng cửa, biên giới Thái đóng cửa, nên nạn ứ đọng người tị nạn lên cao.
Số người tị nạn Việt Nam không thể lên trại Sikiew, cũng không thể về lại biên giới nên được chuyển giao đến trại Khao Y Dang. Người Việt tị nạn được dồn vào khu 13. Khu này chia làm hai phần. Một phần còn là người Miên, một phần là người Việt nam tị nạn. Số người Việt nam tị nạn khoảng 1,500 người. Mỗi khu có một ban đại diện độc lập, gồm một trưởng trại, một phó trưởng trại, một ủy viên phụ trách an ninh, một ủy viên phụ trách hành chánh, một trưởng ban ẩm thực.

A. Vấn đề lương thực:

Các khẩu phần giữa người Miên và Việt đều giống nhau. Mỗi tuần, thì cứ hai người được một hộp cá sốt cà chua nhỏ cỡ 4 ounces, trong hộp chỉ có hai con cá nhỏ. Cứ mỗi tuần thì hai người được một cánh gà. Không phải nguyên cái cánh mà chỉ là phần xương của cánh gà mà thôi. Mỗi tuần một đầu người được 200 gramsrau tươi. Đôi khi khẩu phần cá hộp được thay thế bằng vài con cá khô mặn. Bà con ai cũng thích cá khô vì số lượng nhiều hơn cá hộp.
Lúc đầu, ai muốn ăn bao nhiêu dầu ăn, đậu xanh và gạo thì cứ việc lên kho mà lấy. Nhưng sau tháng 4, năm 1980 thì số này được phân phối lại như sau: mỗi đầu người có 400 grams gạo, 200 grams đậu xanh. Cứ một tổ thì được một thùng dầu ăn bốn lít, tức là một gallon dầu. Tuy vậy, số này vẫn dư ăn.

B. Vấn đề nước uống:

Đây là một sự thiếu thốn rất trầm trọng. Hai tháng đầu khi tôi ở trại thì nước rất thiếu. Bốn người được một sô nước hai mươi lít. Nhưng khi nước được xịt vào thì đầy, khi nước lắng lại thì chỉ còn có mười sáu lít nước thôi.
Vì thế, một đầu người chỉ có bốn lít nước mỗi ngày để tự nấu ăn, tắm rửa và uống. Với bốn lít, trừ việc nấu cơm ra, còn lại không đủ uống. Ai muốn mát thì phải nhúng khăn lau mình chứ không đủ nước để tắm. Suốt hai tháng trời, tôi sống rất cực khổ, thiếu ăn, thiếu uống, thiếu mùng, mền và chiếu. Tôi còn thiếu tất cả mọi nhu cầu vệ sinh tối thiểu như xà bông, kem đánh răng, giấy đi cầu hay lược chải tóc.

C. Nhu cầu thiết yếu khác:

Trong hai tháng đầu, không ai có mùng, mền hay chiếu. Sau đó, cứ hai người có một chiếc chiếu đơn, phải nằm ép vào nhau mới đủ. Vấn đề tiêu tiểu quá mất vệ sinh, nên nạn ruồi muỗi sinh sản mau lẹ đến độ trầm trọng. Từ đó, trại phải tổ chức chiến dịch giết ruồi muỗi.
Sau đó cứ hai người được chia một cái mùng. Vì thế, bà con phải nằm chung với nhau. Từ đó xảy ra nhiều chuyện cười ra nước mắt. Hễ cứ gần tối là bà con có chia mùng mền chung phải đi kiếm nhau để ngủ chung. Vào mùa hè, đường gần trại được phá ra, nên đất đỏ có bụi rất nhiều, nếu không nằm mùng thì bụi sẽ bay bám đầy người.
Khi đến mùa lạnh thì cứ hai người được một cái mền chiếc. Có nhiều cậu độc thân ghiền thuốc và cà phê nên lén đem bán mùng và mền để mua thuốc lá và cà phê. Vì thế xảy ra nhiều vụ đánh lộn, ăn cắp và kiện thưa. Lại vì sự chia chác nên có khi một người đàn ông lại được chia chung mùng mền với một người đàn bà. Làm sao đây? Do đó, nhiều người anh hùng rơm nhường hết đồ dùng cho người con gái, còn mình thì đi nằm ké hết chỗ này qua chỗ khác.

D. Kỷ luật trại Khao Y Dang

Trại có lệnh cấm chợ búa và cấm bài bạc hay đĩ điếm. Với số lượng người tị nạn quá đông: 123 ngàn người. Đời sống rất khó khăn. Nếu ai không thích ứng sẽ có thể bị bịnh mà chết. Vì số lượng lương thực rất hạn chế nên người dân Miên phải cố gắng tự túc thực phẩm. Họ nuôi gà vịt và trồng rau cỏ như mướp, rau muống, xà lách... Họ còn ra sau núi để hái lá giang về bán cho người trong trại để mà kiếm tiền. Họ còn biến chế thực phẩm từ chỗ có dư dầu ăn, gạo và đậu xanh, họ làm bánh chiên để bán.
Cho dù lính Thái Lan cấm họp chợ, họ vẫn lén lút họp. Khi lính Thái bắt được thì chúng đánh dân tị nạn rất dã man. Đã có nhiều người trốn ra vòng rào và bị bắn chết.
Tôi ở đó khoảng mười một tháng mà đã chứng kiến khoảng mười người Miên bị bắn vì lén đi ra ngoài vòng rào buôn bán chợ đen. Nếu lính Thái bắt được ở vòng rào trại thì họ đánh đập dân chúng rất tàn nhẫn, đến nỗi mình mẩy đầy máu me lai láng, rồi họ đưa đám nạn nhân này đi lên xe, có lẽ để đem đến chân núi bắn và hủy xác nạn nhân luôn.
Trở lại câu chuyện của Dũng, người dẫn đường đã bỏ rơi chúng tôi ở Nam Vang. Sau đó, hắn dùng tiền của chúng tôi để đi vượt biên. Cuối cùng tôi gặp lại hắn ở Khao Y Dang, sau khi tôi đến nơi độ một tháng. Dũng vẫn nào tật ấy, hắn xài tiền quen nhưng nhịn không quen.
Sau đó, hắn móc nối với đám dân tị nạn ở trại để tìm cách trốn ra khỏi trại đi buôn chợ đen. Hắn đi trót lọt được hai chuyến, đến chuyến thứ ba thì bị bắn chết ở ngay vòng rào trại. Hắn bị lính Thái bắn khi đang chuyển hàng vào, chỉ cách vòng rào có mười thước. Bọn cùng đi chỉ có Dũng bị chết, một người khác bị thương. Sau đó, ban đại diện có làm lễ để cúng cô hồn, mong cho Dũng sớm siêu thoát. Ở đó, hễ ai lén đi buôn mà bị lính Thái bắt được là bọn chúng sẵn sàng đá nát đồ ăn và đánh đấm người một cách dã man. Phần lớn nguồn hàng chợ đen ở Khao Y Dang là do người Miên trong trại lén vượt rào, hoặc chui bò qua các hàng rào kẽm gai để đi buôn.
Cứ tối tối, họ bò vào trại cỡ 2:00 giờ hay 3:00 giờ sáng. Họ bó tất cả đồ mua được vào người của họ. Mỗi chuyến đi buôn chỉ gồm độ bốn chai xì dầu, hai ký đường và một cây thuốc lá Samit. Số lời hàng ngày chỉ khiêm nhượng đủ để gia đình họ ăn trong vòng một ngày, kể gia đình chỉ gồm bốn người mà thôi.
Vì thế, cứ hai, ba giờ sáng là có tiếng súng bắn. Rồi người bị chết, người bị thương. Người Miên đã quá đói kém, vì thế dù biết nguy hiểm, một số con buôn vẫn liều trốn ra buôn bán để kiếm ăn qua ngày. Với cảnh sống cơ cực mà còn bị chèn ép, nên có một số người Miên bất mãn. Họ làm đơn xin UNHCR để cho họ về quê cũ. Họ xin trước rồi được gọi trình diện.
Khi họ hồi hương thì dọc cổng trại có từng đoàn xe vận tải chờ sẵn. Xe tuần tự chở người hồi hương và hàng hóa. Hội UNHCR hỏi lại lần cuối xem có ai đổi ý để ở lại không. Nếu không đổi ý, thì cứ hai mươi hay ba mươi người được gọi lên xe. Trước khi lên xe, mỗi người được tặng một gói quà gồm gạo và thực phẩm khô.
Trong thời gian tôi ở trại thì có hai đợt hồi hương. Sau đó, việc hồi hương được ngưng luôn, có thể vì việc biên giới bị tấn công và đánh phá. Đa số người Miên hồi hương là đàn bà và trẻ con, hay người già yếu và bịnh hoạn.
Cho dù lệnh cấm đánh bạc nhưng tại trại Khao Y Dang có rất nhiều sòng bạc đánh lớn và có người canh cửa để báo động. Còn về phần đĩ điếm thì rất nhiều. Ở đây có cả hệ thống tú bà, bắt mối và đĩ điếm.
Có nhiều cô phải bán thân vì quá nghèo đói. Ở khu tị nạn Việt Nam thì có sáu cô gái Việt Nam được đưa về khu Việt Nam để đọc bản án tội trạng, nếu còn tái phạm thì sẽ trục xuất về biên giới. Khi bị bêu xấu, cả sáu người đều chỉ biết cúi đầu và khóc lóc.
Lúc ấy tôi đang cộng tác với cha Tom, cha là người Hòa Lan. Cha rất tốt và luôn cứu trợ người tị nạn. Cha xem xét tình hình để cứu giúp. Có nghĩa là gia cảnh nghèo mà đông con thì có thể được cha cho 500 bahts một tháng. Nếu gia cảnh ít con hơn thì được phát 200 bahts cho một gia đình. Còn độc thân thì được lãnh 100 bahts.
Nhân lúc các cô gái đi làm điếm bị xỉ nhục, tôi lấy tư cách là đại điện nhóm Công giáo nên đi tiếp xúc và tìm hiểu lý do tại sao các cô ấy lại làm nghề nhơ nhuốc đó. Trong số ấy, có một cô khai là cô đã bán ”bar” ở Việt nam từ lâu, nay thiếu tiền nên tự động đi làm nghề này để kiếm tiền sinh sống. Còn bốn cô kia thì vì chán đời, vì đã bị Para làm nhục, lại vì nhu cầu vệ sinh tối thiểu như không có băng vệ sinh cho những ngày hành kinh, không có kem đánh răng, không có áo quần để thay đổi khi đồ dơ và hôi thối. Có một cô mà chồng đã bị bắt dọc đường, con cô thèm thuồng quá nên cô phải lén lút làm nghề này để nuôi con.
Theo như tôi được biết thì các tổ chức buôn lậu, đánh bạc và chứa điếm đều được lính Thái đỡ đầu, tham gia và cộng tác. Người lính Thái ăn chia đến cả trung đội và đại đội. Sau đó, vì ăn chia không đều nên nội bộ lủng củng, mới đổ bể ra cho cả trại cùng biết.
Nếu ai phạm kỷ luật ở ngoài vòng rào thì ban lãnh đạo Thái Lan xử lý. Nếu ai phạm kỷ luật trong khu section thì ban đại diện của section sẽ xử lý. Nếu không xử lý được thì sẽ đưa cho ban lãnh đạo người Thái Lan.
Theo tôi, bản án nặng nhất là một nhóm người đóng kịch, ca múa bài hát ” Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng”. Sau đó, họ bị ban an ninh bắt và bị trả về trại tị nạn NW 9. Còn những tội nhẹ thì giao cho lính Thái. Họ có thể cạo trọc đầu người phạm tội hay là nhốt vào chuồng cọp. Đây là một chuồng giam có những song sắt. Người bị giam sẽ chỉ được mặc một quần xà lỏn và bị phơi nắng. Phần lớn người bị giam là thanh niên, chứ không có phụ nữ.

E. Các sinh hoạt tại trại Khao Y Dang

Sinh hoạt hàng ngày:
Người tị nạn Việt Nam ở đây rất nghèo khổ, nhưng người dân Miên thì đỡ hơn vì họ có thể tự sinh sống bằng hai nghề: đi buôn lậu và dẫn đường cho người dân ở Việt nam đi vượt biên.
Những dân Miên ở đây lâu thì có lợi. Con cái họ gia nhập các lực lượng lính Para. Còn họ móc nối đường dây đi từ Khao Y Dang để về Tây Ninh hay Châu Đốc dẫn người Việt đi vượt biên. Vì thế họ có thể sống thoải mái nhờ số vàng kiếm được.
Một hạng người nữa cũng sống rất ung dung, đó là nhóm người Hoa ở Cambodia. Họ biết tiếng Miên, lại biết cách dấu vàng bạc nên ít bị xét, mà nếu bị xét, họ cũng có cách dấu vàng bằng cách nuốt rồi đi cầu ra, lượm lại cất.
Về sinh hoạt điển hình trong ngày thì cứ mỗi ngày bà con phải lo vấn đề lãnh nước và lãnh thực phẩm. Giờ còn lại thì đi học thêm Anh văn. Lúc đầu, trại có tổ chức bốn lớp cho dân chúng học thêm.
Về sau thì dẹp lớp Anh Văn chỉ còn những lớp tư nhân mà thôi. Mỗi tuần thầy dạy Anh văn dạy sáu giờ, chi phí từ 100 bahts đến 150 bahts ( từ năm đô la đến bảy đô la rưỡi). Giá cả đều tùy thầy giáo quyết định. Nếu ai quá nghèo thì đành phải tự học hoặc mượn bạn bè sách vở để chép mà học.
Ở trại Khao Y Dang vì có diện tích lớn rộng nên người tị nạn có quyền đi lòng vòng từ section này đến section kia, miễn là đừng ra ngoài vòng rào thì thôi. Vì thế, bà con thường có thói quen: cứ chiều chiều là từng nhóm đi vòng quanh trại để cho giãn gân cốt, hoặc đi cho khuây khỏa và có dịp để suy nghĩ hay suy gẫm các lời Kinh Thánh.
Bà con thường tổ chức nấu ăn chung cho đỡ tốn. Cứ ba, bốn người thì họp lại để nấu ăn với nhau vì lẽ nấu ăn riêng thì không đủ ăn.
Sinh hoạt tinh thần:
Mỗi ngày Chúa Nhật thì người tị nạn Công giáo đi lễ ở một nhà thờ mà họ tự xây cất. Hàng tuần có các tu sĩ Hòa Lan hay cha Tom đến dâng lễ. Cha Tom còn tìm cách đổi ngân phiếu (check), chuyển thư tín hay chuyển qùa từ trại này đến trại khác. Cuộc sống ở đây bình thản nhưng mọi người rất nôn nóng để được đi định cư. Trong mười tháng tôi ở kẹt tại trại, tôi thấy tình cảm trai gái trong trại phát sinh rất nhiều. Có ít nhất là hai đám cưới chính thức ở nhà thờ. Có khoảng năm đám cưới không chính thức. Còn thì rất nhiều đôi lứa quyết định sống chung nên mời bạn bè đến, rồi nấu một nồi chè đậu xanh để ra mắt và đãi đằng bà con.
Trong trại cũng có một số ít khai man lý lịch của mình. Hễ trung sĩ thì khai mình là đại úy hay thiếu tá. Nếu y tá thì khai mình là bác sĩ. Đã có trường hợp một bác sĩ thật lại không được ban điều hành trọng dụng. Còn một ông y tá ở Cần Thơ thì khi tới trại lại khai mình là bác sĩ và được dân chúng tin tưởng.
Lúc đầu cả hai đều được làm việc ở phòng y tế, nhưng về sau, ông bác sĩ thật lại bị truất phế, còn ông bác sĩ giả lại được chọn làm trưởng ban y tế. Mãi đến khi ông này lên đến trại Pananikhom ở Chonburi thì bị lộ hình tướng.
Thư tín và báo chí:
Về thư tín thì mỗi tuần hai lần, vào ngày thứ hai và thứ sáu, là người tị nạn được nhận thư. Hầu hết các thư đều có tiền hay chi phiếu của các thân nhân trên thế giới gửi về. Có khi thư từ Việt nam gửi qua. Đây là món ăn tinh thần vui sướng nhất của trại tị nạn. Ở đây bà con đâm ra siêng năng viết thư, hoặc viết thư ra ngoại quốc để xin tiếp tế, hoặc gửi thư về Việt Nam để bày tỏ lòng thương nhớ của mình.
Ngoài ra, báo chí cũng rất được bà con coi trọng và giữ kỹ. Hễ ai có báo chí tiếng Việt từ Hoa Kỳ, Pháp hay Canada gửi qua thì họ chuyền tay nhau đọc cho đến nỗi tờ báo nhàu nát và mờ hết chữ mới thôi.
Trong bốn tháng đầu, trại có nạn ăn chận thư tín. Hễ thư về hôm trước thì đến tay ban lãnh đạo. Rồi sau đó ban đại diện trại lên lãnh thư về. Họ không chịu phát ngay mà đợi đến tối để rọi lá thư lên đèn dầu. Hễ thấy thư có kèm tiền hay ngân phiếu (check) thì họ dùng mọi cách để lấy tiền. Có khi lấy tiền xong thì họ thủ tiêu luôn lá thư. Về sau dân chúng khám phá ra nên tệ nạn này mới chấm dứt.
Nạn bè phái:
Những người có quyền hành thì ăn chận đủ mọi cách để rút khẩu phần xuống. Cuối cùng mọi sự đều công khai hóa nên tệ trạng mới biến dần.
Nước là một nhu cầu thiết yếu vì thế nếu các người tị nạn có chút quyền thế thì lập bè phái này nọ để chia nhau ăn chận nước rồi bán nước lấy tiền. Thôi thì hết trưởng ban này đến trưởng ban nọ đến lấy nước. Rốt cuộc đến dân đen thì gần hết số nước.
Vật dụng dành cho người tị nạn:
Khi các quần áo được cấp phát, ban điều hành lo chọn các bộ quần áo vừa kích thước của họ rồi cất đi, còn lại những áo quần không đúng kích thước hay không hợp thời trang thì đưa ra cho dân tị nạn bốc thăm. Có nhiều chuyện buồn cười xảy ra như thanh niên thì bốc thăm được cái áo đầm. Cụ già thì lãnh cái quần cao bồi. Đàn bà rút được cái quần đùi. Nhiều thanh niên lãnh áo đầm thì mặc vào rồi nhảy nhót, múa hát, trông vừa buồn cười mà vừa chua xót.
Việc nhà cửa:
Trong bốn tháng đầu tôi ở thì nhà cửa sơ sài. Ai tới trại trước thì được ở những nhà đã cất sẵn. Còn kẻ tới sau thì nằm vất vưởng ở các sân cỏ, gần thùng nước hay ngay lối ra vào.
Về sau UNHCR cho thêm tiêu chuẩn tre để làm sườn nhà và lá tranh để lợp nhà, thêm vải nhựa xanh để lót cho đỡ dột. Từ đó, người tị nạn làm bồn chứa nước để đựng nước để dành. Hễ cứ một nhà rộng cỡ ba thước và dài cỡ sáu thước thì ở được mười người. Về sau bà con cất nhà lấy để ở hoặc nhờ người quen hay người Miên cất nhà ở cho mình.

F. Thảm cảnh của người tị nạn ở trại Khao Y Dang

Về tệ nạn hãm hiếp:
Có thể nói hầu như 90% phụ nữ tị nạn bị hãm hiếp. Ở trại có một phái đoàn Y khoa thường kêu gọi các cô gái hễ có thai bất đắc dĩ thì họ sẽ giúp cho phá thai, hay nếu ai bị bịnh giao hợp cần chữa trị thì nên khai, không nên vì mắc cở mà dấu diếm. Lúc đầu chỉ có một hay hai cô khai mà thôi. Cuối cùng vì xảy ra một trường hợp khá nghiêm trọng nên ban y tế phải cưỡng bách việc khám nghiệm.
Số là có một cô gái bi bịnh giang mai do bọn lính Para truyền qua. Cô ấy vì quá mắc cở và sợ sệt nên dấu, không chịu khai bịnh. Về sau, cô ta nổi điên loạn, nói lung tung. Đến một buổi trưa, cô ta ngất xỉu. Khi phòng y tế khám phá ra thì cửa mình cô ta đã hư hại hoàn toàn.
Sau đó, phòng y tế xuống kêu từng cô gái để khám riêng. Đây là một việc bí mật vì nếu không, các nạn nhân sẽ mắc cở và cảm thấy nhục nhã. Sau kết quả khám nghiệm thì hầu như đại đa số đều bị mắc bịnh hoa liễu. Còn một số thì có thai bất đắc dĩ.
Có một trường hợp là chồng đi thoát đến trại Sikiew còn vợ thì đến sau ở trại Khao Y Dang. Trên đường đi, cô vợ bị hãm hiếp bởi bọn Para. Sau đó, cô dấu chồng việc ấy nhưng rồi chồng cô biết được nhưng không thông cảm cho cô. Cô ta hỏi xin tiền chồng nhưng chồng cô lờ luôn, cũng không thư từ qua lại. Từ đó, cô sống rất thác loạn. Đôi khi vì chỉ có nửa ký đường hay một hộp sữa mà cô bán dâm một cách công khai. Hầu như các thanh niên ở trại này đều biết danh cô ta.
Một trường hợp khác, người chồng ở trại NW 9, còn vợ ở Khao Y Dang. Chi này nghe tin chồng ở bên kia bê bối nên ở đây chị cũng rất lăng nhăng.
Ở một trại nhỏ này, đời sống tình cảm của nam và nữ rất thác loạn. Có nhiều cô gái nhìn phong cách rất gương mẫu, cách nói năng rất đàng hoàng, có lẽ cô phải sống trong gia đình có giáo dục. Tới trại, các cô sống phóng túng có lẽ vì đã bị nạn hãm hiếp, nay lại sống xa gia đình, thoát sự gò bó của cha mẹ nên không còn ai kiềm chế, cá tính lãng mạn của các cô bộc phát nên các cô tung hoành.
Có một số ông tự xưng mình là bác sĩ, kỹ sư hay giáo sư nay chỉ vì một thùng nước hay một con cá khô mà hạ mình nịnh bợ những kẻ không ra gì hoặc hổ trợ chúng làm những việc thất nhân tâm.
Có một số người tị nạn khác vì sau khi gặp mọi nguy hiểm và khủng hoảng trên đường đi mà thoát được. Khi đến trại, họ cảm ơn Thượng Đế vì các ơn lành của Ngài nên họ trở nên ngoan đạo, lập thành các nhóm đọc kinh cầu nguyện chăm chỉ, và làm các công tác tông đồ cách đắc lực.

G. Các trẻ em bị lạc gia đình.

Lúc tôi ở trại thì có khoảng sáu em lạc cha mẹ hoặc ra đi với người quen, còn cha mẹ các em thì còn lại Việt Nam. Một em cùng đi với cha mẹ, nhưng bị lạc cha mẹ nên không biết họ còn sống hay không. Tới trại, em có nhờ hội HTTQT kiếm nhưng không tìm được cha mẹ ở các trại tị nạn khác.
Có hai em khác thì đi cùng với người dẫn đường để đến trại. Cha mẹ các em còn lại ở Việt nam để thu xếp và đi sau. Khi tới trại, người dẫn đường xua đuổi và ruồng rẫy hai em này. Số còn lại thì đi với anh hoặc chị. Giữa đường thì anh chị chết.
Cha Tom rất chăm lo săn sóc cho các em thiếu nhi mất gia đình này. Cha cho các em quy tụ và sống chung để có một số người lo giáo dục và hướng dẫn các em. Anh trưởng ca đoàn của ban Công giáo tại trại Khao Y Dang thì lo giáo dục các em về thể thao và văn nghệ. Còn tôi đặc trách về tài vụ. Cứ mỗi tuần, tiền chợ búa cho các em ăn tiêu là do tôi đề nghị qũy của cha Tom xuất chi.

H. Bà cụ già nhất ở trại tị nạn.

Trong số những tị nạn Việt nam ở trại Khao Y Dang có một bà cụ già đến 91 tuổi. Cụ bà được các cháu cõng đi. Cụ già người gốc Chàm và quê ở Châu Đốc. Cụ là bà nội của ông Phụng Hoàng Vân, ông Vân ở trong ban cố vấn sắc tộc thiểu số đời Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Cụ cũng là bà của ông Tôn thất Liêm. Cụ đã được thâu hình và phỏng vấn bởi đài truyền hình Thụy Sĩ vì cụ là người tị nạn già nhất ở trong trại.
Tóm lại, trại Khao Y Dang tương đối an toàn hơn các trại tị nạn ở vùng biên giới vì nó ở trong nội địa Thái Lan. Trại còn được đặt dưới quyền kiểm soát của Liên Hiệp Quốc và Hội HTTQT.

Trại Tị Nạn Sikiew

Từ trại Khao Y Dang có khoảng tám trăm người đã lần lượt được chuyển sang trại Panatnikhom, ở tỉnh Chonburi, Thái Lan. Số còn lại độ năm trăm người gồm đại đa số là thanh niên độc thân và không có người bảo lãnh thì được chuyển sang trại Sikiew vào cuối tháng 11, năm 1980. Đây cũng là đợt chót mà dân tị nạn được chuyển đi, thế là toàn thể section 13, section đặc biệt của người Việt tại trại Khao Y Dang được xoá bỏ hoàn toàn vào cuốt tháng 11, năm 1980.
Trại Sikiew ở sâu trong đất Thái Lan, và nằm trên vùng cao nguyên của Thái Lan, khí hậu mát giống như Đà lạt. Đây là một trại tù không hơn không kém. Trại gồm có chín buildings, gồm hai tầng lầu. Mỗi building dài năm mươi thước, ngang năm thước, chứa khoảng từ 280 người đến 300 người. Mỗi người có một diện tích chỉ đủ để đặt thân mình ngủ, bề ngang độ nửa thước, còn bề dài chỉ độ hơn một thước rưỡi.
Trong chín buildings thì có hai buildings là nhà tù, một building giam bộ đội Cộng sản Việt Nam, một building giam người tị nạn Việt Nam. Ngoài ra còn có một building trống.

A. Cơ cấu nhân sự:

Mỗi building có một trưởng building có quyền kiểm soát toàn building. Tiếp đó là một trưởng phòng trên lầu, một trưởng phòng dưới lầu, một trưởng ban an ninh, một trưởng ban thư tín, một trưởng ban ẩm thực, một trưởng ban chia nước và một trưởng ban xã hội và thể thao.
Toàn thể các trưởng buildings họp lại thành trưởng ban lãnh đạo. Ban lãnh đạo làm việc dưới quyền một thiếu tá quân đội Thái. Phó trưởng trại là một nhân viên quốc gia hành chánh của Thái. Các trưởng buildings có quyền được ra phố xá Thái chơi hàng tuần và được quyền lợi về thực phẩm và nước uống nhiều hơn các người tị nạn khác.
Các buildings cách nhau bởi những hàng rào cho nên mỗi building như một lãnh địa riêng.

B. Tệ trạng quan liêu hống hách.

Ban an ninh trong trại Sikiew là những người Miên gốc Hoa được chọn lựa ra làm việc. Có thể nói là hầu hết người trong ban an ninh là thành phần bất hảo, lợi dụng quyền hành để bắt nạt dân đen.
Mỗi ngày, dân tị nạn phải tụ tập ở sân để chào cờ hai lần vào buổi sáng và buổi tối. Nếu ai trốn chào cờ hay chào cờ không nghiêm chỉnh thì sẽ bị thi hành kỷ luật như bị cạo trọc, hay bị nhốt trong tù. Ai cũng phải tỏ ra nghiêm trang khi nghe quốc ca Thái và nhìn quốc kỳ Thái lên cao. Mỗi building đều có hai người trong ban an ninh trại đứng kiểm soát. Thường thì tác phong của những người này rất tồi tệ.
Sân để chào cờ rất chật hẹp nên bà con phải chen chúc để đứng chào cờ. Sân dài độ sáu mươi thước, rộng mười lăm thước. Dân trong từng building đứng nơi sân của mình. Từ building này đến building kia rất khó vì mỗi building đều có tường xây, ở giữa có rào kẽm gai. Tiếng nhạc chào cờ được vang lên trong loa phóng thanh.
Tại đây luôn có bầu không khí căng thẳng. Diện tích sân và lầu đều quá chật hẹp cho nên bà con thường đi đứng lang thang ở trên lầu hay sân hoặc chen chúc nhau để lãnh nước và lãnh thực phẩm. Loa phóng thanh ồn ào suốt ngày để thông báo về nội quy, kỷ luật của trại. Tiếng ồn ào này làm cho người tị nạn không có thể học Anh văn hay đọc sách được. So với Khao Y Dang thì ở Sikiew rất tù túng và thiếu sự thoải mái.
Nói chung, các tệ trạng của Sikiew phát xuất từ các thành viên trong ban an ninh. Những người này đã sống lâu trong trại. Họ rất biết lấy lòng quan thầy lãnh đạo Thái nên họ được nhiều độc quyền buôn bán và kiếm ăn.
Họ có rất nhiều độc quyền như: Phân phối nước đá, thuốc lá, nước. Ban an ninh làm việc để thâu tiền cho người Thái và để được ăn chia chút đỉnh. Họ chia ra nhiều phe phái: phe thì dựa oai trưởng trại, phe khác dựa oai phó trưởng trại. Thế rồi hai phe kèn cựa nhau, thanh toán nhau bằng cách đâm chém. Họ là những kẻ nịnh bợ người Thái và là con cờ của chúng. Cuối cùng nếu họ vì đánh nhau mà xảy ra chuyện thì ban lãnh đạo Thái cũng cứ lờ đi. Người Thái không vì con cờ mà làm mất lòng nhau.
Ban an ninh còn lạm dụng quyền thế để mua tre dựng lều ở các khoảng trống rồi mở các quán cà phê kiếm lợi. Họ vặn nhạc ồn ào cả ngày với đủ loại nhạc Thái, Tàu và Việt.
Vòng rào như một phương tiện để canh giữ những tù nhân. Vì thế mỗi buổi sáng từ 8:00 giờ đến 11:00 giờ thì chỉ có mười người đại diện cho mười tổ để ra ngoài đi mua đồ ăn. Ngày hôm sau, đến mười người khác được đi.

C. Tình trạng lương thực và nước uống trong trại.

Trong thời gian tôi ở trại Sikiew gần hai tháng, tôi thấy đồ ăn ở đây rất ít. Tình trạng thiếu thốn lương thực đã làm bà con khốn khổ. Đồ ăn do nhà thầu đem đến. Vào mỗi buổi trưa và chiều, loa kêu gọi các tổ trưởng trong buildings mang sô hay thùng qua nhận đồ ăn cho tổ của mình.
Ngày nào cũng chỉ có mỗi một món duy nhất là canh bí. Canh bí gồm bí không lột vỏ được bầm nát ra để nấu với vài cái chân gà, cánh gà hay cổ gà. Có khi bí được nấu với vài miếng thịt heo lèo bèo. Cho dù là cánh gà hay thịt heo thì tiêu chuẩn thịt cũng rất ít. Trong building gồm có khoảng ba trăm người mà sô canh chỉ có vỏn vẹn hai hay ba cánh gà.
Về phần cơm thì mỗi người được hai chén nhựa. Cơm thì có bữa khô, bữa nhão,khê hay nát. Vì thế nếu ai không có tiền tiếp tế của thân nhân từ ngoại quốc gửi đến thì rất khổ cực.
Về nước thì cứ hai buildings có một hồ nước xây bằng xi măng. Cứ hai người được một sô nước mỗi ngày. Nếu lỡ hai ba ngày mà không có nước vào thì dân chúng sống rất khổ cực. Từ đó còn có thêm tệ nạn bán nước với giá cắt cổ. Thường thì những người Thái có quyền hành bỏ tiền ra thuê xe nước đem vào trại rồi bán lại cho dân tị nạn để kiếm lời. Tuy giá bán cắt cổ nhưng dân tị nạn vẫn phải mua để mà dùng.
Tại trại Sikiew có nhiều hàng quán và chợ búa. Ông trưởng trại cho người thầu để ăn hoa hồng. Hàng hóa rẻ và nhiều, gồm đủ loại: từ vải vóc, xà bông đến đồ ăn uống. Dân tị nạn có thể đặt hàng rồi họ đem hàng đến ngày hôm sau. Hàng hóa ở đây rẻ hơn ở Khao Y Dang.

D. Thư tín và thánh lễ:

Cứ ba lần trong tuần thì ban lãnh đạo Thái lãnh thư về và đưa cho ban thư tín của building để phát cho dân. Người tị nạn cũng có thể gửi qùa về Việt Nam hay đi các nước khác bằng cách giao cho ban thư tín đi ra phố Thái để gửi đi.
Mỗi ngày Chúa Nhật đều có cha Namvong, người Thái gốc Việt đến để giúp người tị nạn chuyển thư hay đổi những chi phiếu cho dân tị nạn. Cha biết nói tiếng Việt và rất tử tế, cha đã từng xây nhà thờ ở trại Sikiew và tìm cách giúp đỡ tài chánh cho những người thiếu thốn trong trại.
Cứ mỗi ngày Chúa Nhật, người nào theo đạo Công giáo thì được đi ra khỏi vòng rào để dự Thánh lễ. Họ phải xếp hàng một để đi qua cổng. Khi gặp người Thái canh gác thì phải chắp tay cúi đầu để chào theo kiểu nhà Phật. Hễ ai cố tình lờ đi thì bị phạt rất nặng.

E. Sinh hoạt chung tại trại:

Ở trại này có điện, mỗi người dân ở trong từng building phải góp nhau mua bóng đèn. Mỗi building có từ mười đến mười hai bóng đèn nê-ông. Bà con có thể thắp từ chặp tối đến sáng. Còn ở Khao Y Dang thì không có điện nên bà con phải dùng dầu ăn và vải để làm bấc thắp đèn.
Mỗi tháng, ban lãnh đạo người Thái có những buổi chiếu phim có tính cách bắt buộc. Ai cũng phải đem mùng mền ra xem và ngủ ở ngoài sân vận động. Thường phim được trình chiếu là phim Tàu về quyền cước hay tình cảm. Nghe nói sau này còn có những phim tục tĩu, khiêu dâm. Phim chiếu từ tối đến năm, sáu giờ sáng. Có khi chiếu đến năm, sáu cuốn phim. Có người ra để xem phim, nhưng có số khác ra để cặp bồ bịch hay ân ái.
Ngày chiếu phim là ngày vui cho cả trại vì bà con đua nhau mặc quần áo đẹp. Còn các hàng quán thì mọc ra như nấm để được dịp kiếm tiền. Ban an ninh còn được dịp để khai thác và thâu lợi trong việc ăn uống.
Ở Sikiew có hai cảnh sống trái ngược và mâu thuẫn nhau. Kẻ nào có người nhà ở ngoại quốc tiếp tế hay kẻ ấy biết “mánh mung” thì rất sướng. Trái lại phần lớn dân tị nạn rất khổ vì họ bị nạn bè phái, cá lớn nuốt cá bé nên khổ cực trăm bề.
Tệ nạn bài bạc và mãi dâm:
Các tệ nạn bài bạc, mãi dâm, lừa gạt , đánh lộn, chèn ép đầy dẫy ở trại này. Các người trong ban an ninh, phần lớn là người Tàu lai Miên thường tụ tập bài bạc rồi lấy tiền xâu góp cho ban lãnh đạo người Thái.
Ở building số năm nổi tiếng về tệ nạn mãi dâm. Building này có nhiều người Tàu. Các cô gái Lào từ mười lăm tuổi đến hai mươi tuổi thường là rất đẹp: da trắng và má hồng. Vì phải ở lâu trong trại nên sinh ra đói khát. Các cô này đành phải bán dâm để kiếm ăn.
Các cô gái Việt Nam cũng không kém gì. Họ bị vật chất quyến rũ, lại thêm những tai họa trên đường đi. Từ đó họ sinh ra chán nản,buông thả và bất cần đời. Cảnh lấy vợ, ghép chồng rất nhiều. Họ cần tiền và cần sự giúp đỡ nên lấy nhau rồi bỏ nhau như cơm bữa.
Tệ nạn lừa gạt: Tìm bạn bốn phương.
Ở trại này có một tệ trạng nổi tiếng là nạn: “Tìm bạn bốn phương”. Đây là một tình trạng lừa gạt có hệ thống và tính toán. Các thanh niên độc thân ở building chín thường là những bộ đội Cộng sản Việt nam đào ngũ trốn đi.
Khi qua đến Thái Lan, họ lại bị chính quyền Thái bắt nhốt ở đây quá lâu.Từ đó, họ nảy sinh ra việc đăng báo ở ngoại quốc. Họ giả làm các cô gái, tạo ra những câu chuyện thật thương tâm để làm các nam độc giả ở ngoại quốc xiêu lòng gửi tiền qua trại Sikiew giúp đỡ cho họ.
Các thanh nên này vì đã ở đây ba, bốn năm nên họ không sợ thư gửi qua bị lạc vì người nhận đã đi định cư. Họ còn bắt liên lạc với những người chụp hình để làm ăn. Những người có máy hình chỉ việc đi vòng quanh trại, thấy cô gái nào đẹp là chụp hình và không lấy tiền. Sau đó, họ rửa hình cất đi để làm ăn, đôi khi họ cho các cô đã chụp hình một vài tấm có hình cô ta. Vì thế, các cô này rất thích cho họ chụp hình, nhưng sau này, việc đổ bể nên họ mới dè dặt.
Tôi đã được biết rất rõ những trường hợp giả mạo này ở building chín trong mục tìm bạn bốn phương. Các cậu này lấy những tên con gái thật đẹp và thật kêu để ngụy tạo. Họ tạo những lá thư tả oán thật đáng tội nghiệp, chẳng hạn như cảnh: ”Nàng đi với chồng, rồi chồng bị giết, nay bơ vơ cần tìm người quảng đại và tử tế để lập lại cuộc đời.” Hay cảnh: ” Nàng đi với gia đình rồi gia đình bị chết, nay cô đơn cần người an ủi.” Rồi thì đến cảnh: ”Các cô cựu nữ sinh Gia Long hay Trưng Vương buồn nhiều trong cảnh ngộ vượt biên, cần tìm bạn an ủi, bảo trợ và giúp đỡ tài chánh.”
Từ đó, các thư hồi âm về trại rất nhiều. Có thư kèm theo những chi phiếu hai trăm đô la hay một trăm đô la. Có một lúc, một cậu giả làm một cô gái được rất nhiều thư có tiền đến cùng một lúc. Thế là anh chàng sống phè phỡn và đế vương.
Ở ngoại quốc, những người đã gửi tiền qua bèn xin hình để biết mặt người đẹp. Thế là các anh này đi móc nối với nhóm chụp hình để mua hình các cô gái đẹp và gửi đi lừa những người ở ngoại quốc. Giá hình cũng tùy thuộc theo cô gái trong hình xấu hay đẹp.
Thế là trong trại nảy sinh ra nghề viết thư mướn. Ai viết chữ đẹp và giống chữ con gái thì được người chủ mưu tìm bạn bốn phương thuê để viết thư theo ý họ muốn. Công viết một lá thư là từ năm đô la trở lên. Mỗi lá thư viết lâu từ mười lăm phút đến hai mươi phút.
Có lúc tệ trạng này bị đổ bể vì ở ngoại quốc có một anh viết thư cho ban đại diện building đó để hỏi xem có cô gái nào tên này, tên kia ở trong building chín không. Ban đại diện trả lời là trong building đó chỉ toàn là đàn ông mà không có đàn bà. Anh chàng bèn tức giận, đăng nghi vấn lên báo chí ở ngoại quốc. Rồi anh ta viết thư chửi cô gái giả mạo nọ. Nàng giả mạo bèn viết thư qua kể lể rằng: ” Em chính là con gái, nhưng vì người trưởng building của em muốn ”cua” em, em không đồng ý nên họ đặt điều để phá em. Nếu anh không tin thì cứ gửi quần áo về trại, em sẽ mặc để chụp hình gửi cho anh sau.”
Anh kia bán tín bán nghi nên sắm một thùng quà toàn áo đầm, quần jeans và áo thung gửi qua trại ngay. Cô gái giả mạo bèn đi tìm cho được cô gái đã chụp hình để nói láo rằng gia đình hắn gửi quà cho em gái hắn. Nay em gái hắn còn kẹt lại ở các trại biên giới Thái-Miên nên không mặc được. Rồi hắn tặng cho cô ta thùng quà đó.
Cô ta mừng rỡ nhận ngay. Thế rồi hắn đòi cô ta cho hắn được chụp vài hình làm kỷ niệm. Cô gái kia thật thà cho chụp hình ngay. Sau đó, hắn gửi hình cô ra ngoại quốc để thanh minh với anh chàng kia. Anh kia bèn gửi thêm một lá thư cho ban đại diện building để chửi họ. Thế là mọi sự mới đổ bể ra.
Bọn bất lương này đã làm giàu nhờ việc giả mạo để chơi mục ”Tìm bạn bốn phương”. Bọn họ rất phe phỡn. Họ tuyên bố rằng họ có thể mua xe hơi ngay tại Thái, nhưng họ sẽ để dành tiền để ra ngoại quốc sống.
Sau này, vì tò mò, tôi mới tìm hiểu và được biết rằng đây là một tổ chức có quy mô, từ trên xuống dưới, đều chia nhau ăn. Ban lãnh đạo người Thái thường đi ra lãnh thư. Khi đi, có cả ban an ninh đi theo. Hễ thư của anh nào mang tên con gái thì ban an ninh nhận hết về phần họ.
Khi về, tùy theo số tiền gửi trong thư nhiều hay ít thì cô gái giả mạo kia phải chia tiền cho người Thái và ban an ninh. Ví dụ thường thì một trăm đô la đổi được hai ngàn bahts. Nay một trăm đô chỉ đổi được một ngàn hai trăm bahts hay một ngàn năm trăm bahts. Người trưởng trại Thái nhận đổi theo kiểu này.
Một câu hỏi được đặt ra là tại sao ban an ninh biết mà không ăn chận thư ngay mà lại đưa trả cho kẻ chủ sự việc này? Câu trả lời là họ muốn ăn dài lâu nên không thèm ăn chận một lần. Họ cố tình nuôi dưỡng vấn đề này để cùng ăn chia dài dài.
Ban lãnh đạo người Việt tuy biết tệ trạng này nhưng không có thực quyền nên đành làm ngơ. Nếu làm ra chuyện, họ sẽ có thể bị chụp mũ là Cộng sản và bị nhiều điều bất lợi cho cá nhân họ. Có nhiều người bị ghét nên bị ghép tội rồi bị bắn chết.
Tôi được nghe rằng vào năm 1979, có người tị nạn bị người Thái ghét nên họ đem ra hàng rào bắn chết vào ban đêm rồi gắn tội cho anh ta là tình báo trốn ra ngoài nên bị bắn khi đang chui hàng rào ra.
Vì làm ăn khấm khá nên những cô gái giả mạo này cứ cố tình trì hoãn để khỏi phải chuyển trại. Họ muốn ở lại Sikiew mãi để làm tiền những người ở ngoại quốc.
Tóm lại, đời sống ở Sikiew rất tù túng và gò bó. Tệ nạn tại đây cũng nhiều hơn các nơi khác. So với các trại tị nạn khác thì trại Sikiew này chính là trại tù khổ cực nhất và đầy dẫy sự bất công.”
Nguyễn Văn Thụy Viễn